Thứ Ba, 30 tháng 7, 2013

VỀ LÁ THƯ CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH GỬI TỔNG THỐNG MỸ HARRY TRUMAN NGÀY 28-2-1946

SƯU TẦM ĐỂ THAM KHẢO


Trong cuộc gặp tại Nhà trắng giữa Tổng thống Barack Obama và Chủ tịch Trương Tấn Sang, bức thư Chủ tịch HCM gửi Tổng thống Harry Truman lại được nhắc đến như bằng chứng cho sự thiết lập sơ khởi trong bang giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Thử nhìn lại tiến trình này…
Khi Hiến chương Đại Tây Dương công bố hè 1941, ông HCM đã nhìn thấy vận hội cho công cuộc tranh đấu giành độc lập từ thực dân Pháp. Hiến chương ra đời với sự đồng thuận của Thủ tướng Anh Winston Churchill và Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt đã nêu rõ sự tôn trọng chủ quyền quốc gia cũng như sự tái lập nền độc lập đối với các quốc gia bị tước chủ quyền. Mỹ là một trong những quốc gia đầu tiên mà ông HCM nghĩ đến như một sự trợ giúp cần thiết thời điểm đó. Và cơ hội đầu tiên đã xuất hiện vào năm 1944, khi một máy bay Mỹ bị tai nạn trên bầu trời Cao Bằng. Viên trung úy phi công Mỹ William Shaw được Việt Minh cứu sống và lập tức đưa đi khỏi địa điểm bị nạn. Ngay hôm sau, quân Pháp vây kín khu vực, tháo máy bay và tìm viên phi công. Tiếp theo Pháp là Nhật. Tuy nhiên, Shaw đã được đưa đến thôn Lũng Bó, vào lúc ông HCM chuẩn bị đi Côn Minh (Trung Quốc). Chủ tịch HCM lệnh cho tiểu đội du kích của Lê Quảng Ba bảo vệ Shaw và sau đó yêu cầu đưa Shaw đến gặp. Cuối buổi nói chuyện, ông HCM hứa trả Shaw cho quân Đồng minh tại Côn Minh. Trước khi chia tay, ông HCM yêu cầu Shaw giao lại cho thượng cấp bản tiếng Anh của “Cương lĩnh Mặt trận Việt Minh”.
Cuối năm 1944, ông HCM sang Côn Minh. Shaw được đi theo để được trở về Bộ tư lệnh không quân Mỹ tại đó. Khi đoàn đến Thiên Bảo, huyện trưởng Tĩnh Tây báo cho Trần Bảo Phương (tướng của Tưởng Giới Thạch); và ông HCM được yêu cầu giao Shaw cho họ. Đây là một âm mưu “cướp công” – nói theo tác giả Mai Văn Bộ trong quyển Con đường vạn dặm của Hồ Chí Minh. Tại Côn Minh thời điểm trên, ngoài tổng hành dinh Không đoàn 14 Hoa Kỳ dưới sự chỉ huy của tướng Claire Chennault, còn có Tổng cục chiến lược vụ (OSS – tiền thân Cơ quan tình báo Mỹ CIA) và Cơ quan cứu trợ không quân (AGAS). Khi đến Côn Minh, ông HCM liên lạc ngay với AGAS. Khi nghe thuộc cấp kể về việc Việt Minh cứu Shaw, chỉ huy AGAS Charles Fenn lập tức đồng ý gặp ông HCM. Sau cuộc tiếp xúc ngày 17-3-1945, Charles Fenn và ông HCM lần thứ hai vào ngày 20-3-1945 và sắp xếp cuộc tiếp xúc với Claire Chennault.
Cần nhấn mạnh rằng, trong cục diện chính trị thập niên 1940, khi Đông Nam Á trở thành một trong những điểm nóng nhất thế giới, Mỹ bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến Đông Dương. Tướng William Donovan – chỉ huy trưởng OSS – đã bí mật cử hai viên chức tình báo sang khu vực: đại tá John Whitaker và trung tá Archimedes Patti nhằm nghiên cứu tình hình thực tế. Đến Côn Minh ngày 14-4-1945, Archimedes Patti nhanh chóng nhận ra sự phức tạp của bàn cờ Đông Dương, khi quân Nhật có khả năng tấn công lên Tây Nam Trung Quốc, khi Pháp thất bại hết trận này đến trận khác, khi quân Tưởng tiếp tục là thế cờ khó giải trong cục diện chính trị Trung Quốc…
Archimedes Patti cũng được nghe về sự lớn mạnh của Việt Minh. Sau khi nghe báo cáo về việc Việt Minh cứu Shaw cũng như các cuộc tiếp xúc của ông HCM với Claire Chennault và Charles Fenn, Patti quyết định trực tiếp gặp Chủ tịch Hồ. Chiều 27-4-1945, Patti đến quán trà tại ngoại ô Tĩnh Tây, chờ Vương Minh Phương (người móc nối liên lạc giữa Việt Minh và tình báo Mỹ). Chập choạng tối, ông Vương đến, dẫn Patti đến ngôi làng nhỏ cách Tĩnh Tây khoảng 10km. Trong cuộc gặp, Chủ tịch Hồ đi thẳng vào vấn đề: “Việc hợp tác với Đồng minh chống Nhật trên chiến trường Đông Dương mà chúng tôi đã làm, trên thực tế, chứng tỏ rằng chúng tôi sẵn sàng hợp tác với Chính phủ Mỹ”. Patti cũng kể rằng tên tuổi của Chủ tịch Hồ thật ra không xa lạ gì với chính giới Mỹ, từng được nhắc đến trong các tài liệu Bộ ngoại giao Hoa Kỳ…

hochiminh-truman

       

Về yêu cầu trợ giúp, ông HCM nói: “Nếu Mỹ sắp xếp được với Đồng minh cung cấp những thiết bị liên lạc và một số vũ khí nhẹ, đủ để trang bị cho một đơn vị nhỏ và phái người huấn luyện việc sử dụng các vũ khí đó, chắc rằng tình hình sẽ thay đổi”. Một trong những điểm mấu chốt cuối cùng trong đợt liên lạc này là sự thỏa thuận cho tình báo Đồng minh vào căn cứ Việt Minh. Ngày 15-4-1945, nhóm tình báo Đồng minh được đưa vào căn cứ Việt Minh. Ông HCM dặn ông Cao Hồng Lĩnh và Quốc Văn: “Đây là đám Đồng minh nói là chống phát xít, ngoài việc chúng nắm tình hình Nhật, đồng thời cũng nắm tình hình của ta. Đây là nhóm tình báo chuyên nghiệp, ở Đông Dương đã lâu. Đã cho chúng vào rồi thì trong quan hệ hàng ngày nên xử trí như thế nào cho được việc của họ và cũng có lợi cho ta. Ba phương châm các chú phải nhớ để giải quyết mọi công việc: Thứ nhất là làm gì có lợi cho hợp tác với Đồng minh, không có hại cho công việc của ta. Thứ hai là không từ chối một việc gì có ích chung nhưng cũng không hứa hẹn một điều gì không làm được. Thứ ba là nên khôn khéo đối xử, tìm hiểu hoàn cảnh cụ thể từng người, linh hoạt giải quyết mọi công việc để tranh thủ họ”.
Đầu tháng 5-1945, Chủ tịch Hồ quyết định chuyển căn cứ về xuôi. Trước khi đi, ông HCM gửi thư và hai tài liệu khác cho Patti, nhờ đại diện Mỹ chuyển lên Liên Hiệp Quốc, kêu gọi cộng đồng quốc tế ủng hộ cuộc chiến giành độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam. Cuối tháng 5-1945, ông HCM gửi tiếp thư cho Patti, thông báo việc Nhật mở rộng công trình công sự tại Cao Bằng và nhắc Patti chuyển hai văn kiện đến San Francisco. Vấn đề hợp tác tình báo đã được cụ thể hóa bằng việc toán tình báo Con nai do thiếu tá tình báo Mỹ Allison Thomas nhảy dù xuống Tân Trào giữa tháng 7-1945. Tiếp xúc Thomas, ông HCM một lần nữa khẳng định Mặt trận Việt Minh là tập hợp các đảng chính trị được tổ chức với mục đích duy nhất là đấu tranh cho tự do dân tộc. Ngày 25-7-1945, ông HCM yêu cầu Thomas nhờ trung gian Mỹ báo cho Pháp biết mình có thể nói chuyện với đại diện Pháp tại Côn Minh hoặc Bắc Kỳ. Yêu cầu này được Thomas chuyển cho Bộ chỉ huy AGAS ở Côn Minh.
Đầu tháng 8-1945, ông HCM chọn 100 du kích để biệt đội Con nai huấn luyện sử dụng vũ khí. Ngày 6-8-1945, nhờ điện đài Thomas, ông HCM biết tin Mỹ thả bom nguyên tử xuống Hiroshima (Nhật). Chủ tịch Hồ Chí Minh cấp tốc hội ý Ban thường vụ Trung ương, quyết định tổ chức tổng khởi nghĩa. Phần mình, người Mỹ bắt đầu thay đổi chiến lược cho cục diện Đông Dương. Chiều 25-8-1945, Chủ tịch Hồ về đến Hà Nội. Trước đó ba ngày, phái bộ Mỹ do Patti dẫn đầu đã có mặt tại Hà Nội. Trong Vietnam – a history, tác giả Stanley Karnow thuật: Tháng 7-1945, trước khi Mỹ thả bom nguyên tử xuống Nhật, các nhà lãnh đạo Đồng minh đã họp tại Potsdam (ngoại ô Berlin, Đức). Họ lập kế hoạch giải giới quân Nhật tại Việt Nam đồng thời ủng hộ Pháp tại mặt trận Đông Dương.
Tối 30-9-1945, trong lần gặp cuối cùng với Patti, Chủ tịch Hồ khẳng định: “Nếu người Pháp cố tình quay trở lại Việt Nam, như là những tên thực dân đế quốc bóc lột, tàn sát và giết hại đồng bào tôi, thì tôi dám khẳng định với họ và thế giới rằng đất nước Việt Nam có thể biến thành tro bụi nhưng chính sách của Chính phủ tôi sẽ là một chính sách tiêu thổ kháng chiến đến cùng!”…

6 nhận xét:

  1. Chuyện này tôi đã có biết, trong bài đề cập tới ông Vương Minh Phương chính là chú của Vợ tôi (chồng cô ruột em mẹ vợ tôi) Ông đã hy sinh sau sự kiện đó trên máy bay tư Hông Koong đi Ban đung dư hôi nghi với tư cách nhà báo. Máy bay rơi do đặc vụ Tưởng gài bom định ám sát Chu an lai nhưng Chu không đi chuyến đó. 3 điều Bác Hồ dặn thật chí lý đúng với mọi trường hợp cư xử trong giao tiếp.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Theo tôi được biết, Chu Ân Lai đã biết trước về âm mưu cho nổ máy bay này. Chu quyết định chuyển đi một bay khác va không tố giác âm mưu đó, nghĩa là cứ để cho mấy chục người chết để giữ an toàn cho mình và có bằng cớ tố cáo đặc vụ của Tưởng sau này.

      Xóa
  2. Việc TT Obama, trước khi kết thúc cuộc họp báo với CT Sang công bố món quà ông Sang tặng ông, hiện nay vẫn còn là ẩn số chưa được giải mã 1 cách thuyết phục.( Nên nhớ trong ngoại giao cấp QG, việc tặng nhau qùa qua lại giữa 2 nguyên thủ đều mang một ẩn ý nhất định nào đó.(Như ta trước đây thường là sơn mài chủa 1 cột, chân dung bác Hồ. Rồi sau là mô hình trống đồng Đông Sơn v.v...). Thế món quà của CT Sang mang sang Mỹ có ý nghĩa gì ?
    Sự thật "thư" của Hồ chủ Tịch gửi TT Mỹ Truman lúc ấy chỉ là bức điện tín ( không phải thư tay hay qua đường BĐ). Bức điện đến Nhà trắng rất chậm ( trên dưới 1 tháng) và ngay sau đó nó được lưu trữ trong "kho lưu trữ hồ sơ của Nhà Trắng"và chưa bao giờ được phản hồi . Bức điện này đã được in lại ít nhất 2 lần trong tài liệu xuất bản công khai ở Mỹ. Tức là không còn bí mật gì nữa. Vậy bản gốc rõ ràng đang nằm trong kho của Mỹ, ông Obama có thể đọc và sử dụng bất cứ lúc nào. Thế thì tại sao chủ tịch Sang lại dùng bản sao tặng người có bản gốc ???
    Theo lẽ thông thường thì phải ngược lại mới đúng : Ông Obama tặng bản gốc cho ông Sang !

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Ý nghĩa việc chủ tịch Trương Tấn Sang tặng bản sao bức điện này cho TT Obama có lẽ là khá rõ ràng và nhiều người đã hiểu nhưng không ai nói ra một cách chính thức và đầy đủ.

      Xóa
    2. Những ẩn ý lắt léo trong các động thái ngoại giao nhiều khi khó hiểu. Liệu ở đây ô TTS có muốn nhắc lại cho Obama hiểu rằng trước đây VN đã trông chờ ở sự ủng hộ của Mỹ , ngày nay cũng vẫn thế? Trước kia Mỹ chưa ủng hộ thì bây giờ "sửa sai" đi? Với sự ù ù cạc cạc của mình tôi chỉ đoán mò thế thôi, các cụ đừng cười nhé. Viết com cho vui thôi mà, chứ chuyện chính trị tôi xin dành cho các cụ.

      Xóa
  3. Theo tôi thì cụ Sang tăng cho TT Obama bức thư của HCT (bản sao) là muốm nói:"Các ông đã có bản chính rồi, nay tôi chỉ gửi bản sao cho các anh để xem thái độ của các ông có thực lòng không!" Tôi nghĩ rằng Mỹ nó cũng đủ khôn để xem xét cái gì có lợi cho nó thì nó làm, ta cũng không thể dựa vào Mỹ một cách toàn diện được. Hơn nữa hiện nay "chủ nghĩa dân tộc" trên "chủ nghĩa quốc tế".Với Nga, Trung Quốc cũng vậy thôi. Vấn đề là ta phải "tỉnh"để nhìn nhận và đối nhân xử thế cho hợp lý

    Trả lờiXóa