Chủ Nhật, 9 tháng 6, 2013

BÀI CHON IN SÁCH,
Kính gửi BĐH BKOG LSQL

NGÀY ĐẦU TIÊN MÁU LỬA
Đinh Công Kỳ ( KỳGai) 



  
 Cuối năm 1945, giặc pháp gây hấn và đánh chiếm nhiều vùng của Nam bộ, gia đình tôi từ Đà Lạt xuống Phan Rang. Trước tết âm lịch năm 1946, người lớn trong nhà bàn bạc xem nên ăn tết ở Phan Rang hay tiếp tục đi ra Bắc. Quyết định cuối cùng là phải đi ngay. 
                        

                                                       Một góc phố Phan Rang xưa 

    Sáng sớm hôm đó, ông ngoại tôi ra bến xe từ rất sớm để mua vé, cậu tôi ( cũng là bố trong khai sinh của tôi) ở nhà lo sắp xếp đồ đạc, chờ có vé về là đi ngay. Bỗng chúng tôi nghe tiếng ô tô quân sự gầm rít và tiếp đó là tiếng súng nổ vang. Quân Pháp đã đến Phan Rang, lính Pháp ở trên xe xả sung xuống hai bên phố để uy hiếp và bắn thẳng vào bất cứ người đàn ông nào mà chúng nhìn thấy. Bà ngoại tôi cõng vội tôi ( 5 tuổi) và kéo tay chị tôi ( 9 tuổi) chạy ra cửa. Tôi quay lại thì thấy anh Chẫu ( nam ô-sin của nhà tôi lúc bấy giờ), một tay xách va li, một tay xách tec- mốt, vừa chạy ra đến cửa bỗng khựng lại, hai tay buông đồ rồi người bỗng lùn hẳn xuống và ngã gục. Không thấy cậu tôi đâu, sau này ông kể lại ông đã lẻn ra cửa sau thoát đi. Bà ngoại tôi cứ cõng tôi trên lưng tay nắm chặt chị tôi tìm những hẻm khuất chạy dần ra bờ sông, đó là con đường duy nhất để đi về phía Nha Trang. Đi được một lúc, bà tìm một gốc cây ngồi nghỉ, bà mặc áo trắng, nên phải cố tìm một người dân ở gần đấy, để mua một bộ đồ nâu sòng khoác ra ngoài cho đỡ lộ liễu. Khi thay đồ bà mới phát hiện máu me đầy một bên áo, thì ra chị tôi đã bị thương, đang lịm đi. Vừa đúng lúc đó, một người lính Pháp chạy gần tới, bà nói một vài tiếng Pháp gì đó ( khi đó dân thành thị ai chẳng biết nói vài câu tiếng Pháp), sau này bà mới kể lại bà chỉ kịp nói : Đàn bà, trẻ con, bị thương. Người lính Pháp khựng lại, nhìn chị tôi, y vứt cho bà tôi một đoạn dây ga - rô rồi lại chạy đi. ( trong hàng ngũ quân Pháp vẫn có những người tốt). Bà tôi buộc ga - rô cho chị tôi rồi tiếp tục vừa bế vừa cõng chúng tôi đi ra phía bờ sông. 

     Sông Cái Phan Rang về mùa khô, chỉ còn những lạch nhỏ, nhiều bãi cát rộng, có thể lội qua. Vừa leo được xuống bãi sông thì đã nghe thấy tiếng giầy đinh, tiếng lính Pháp xì xồ và tiếng súng chát chúa ngay ở trên đầu. Nép vào bờ sông chúng tôi nhìn thấy những người đàn ông đang lội sông bị bắn gục xuống. Hoàn toàn trống trải, chỉ có một đống phân ngựa lớn bằng một chiếc ô tô tải. Hồi đó ở các tỉnh miền trung rất ít ô tô nhưng lại rất nhiều xe ngựa. Người ta để một chiếc túi đựng phân ngựa, khi chạy qua bờ sông thì đổ xuống thành đống. Khí hậu Phan Rang rất khô nóng, phân ngựa đổ xuống qua mấy ngày trở nên khô và xốp, không có mùi hôi thối. Bà tôi dùng hết sức bình sinh đào đống phân ngựa thành một cái hố như kiểu hầm ếch. Đủ chỗ cho ba bà cháu ngồi lom khom trong đó. Tiếng súng nổ liên hồi. Máu loang đỏ cả một khúc sông. Tiếng mooc - chiê nổ ầm ầm, và những cột khói bốc lên phía bờ đối diện. Cứ như vậy cho đến đúng giữa trưa thì nghe tiếng kèn thu quân. ( Hồi đó lính Pháp đánh trận theo giờ, có kèn tiến quân và thu quân ). Không gian bỗng trở nên yên lặng hoàn toàn. Không còn tiếng quân Pháp trên đầu, bà tôi bế hai chúng tôi định ra vượt sông. Nhưng bà không lội được vì sức yếu và lại phải cõng hai cháu. Đúng lúc đó có một người đàn ông dắt xe đạp cũng đang định vượt sông. Bà tôi năn nỉ ông ta giúp đỡ, tôi thấy ông vội vàng vứt luôn chiếc xe đạp chìm xuống nước rồi bế xốc hai chị em tôi và dục bà tôi chạy cho nhanh. Vừa sang đến bờ bên kia và được một số du kích ra giúp đỡ đưa vào chỗ kín đáo thì tiếng sung từ bờ đối diện lại vang lên từng hồi. Bà tôi cũng không kịp nói lời cảm ơn với người đàn ông đã giúp đỡ chúng tôi. 

     Chiều hôm đó quân Pháp bắt đầu vượt sông, chúng tôi lại chạy tiếp, gần tối thì tìm được đến một bệnh viện nhỏ, gọi là Nhà thương Đá Trắng. Chị tôi được băng bó, thuốc men nhưng vì mất máu nên rất yếu. Bệnh viện cũng chỉ còn lại lèo tèo vài ba y tá, hộ lý và 4 người thương binh. Đến tối lại nghe tiếng súng nổ mỗi ngày một gần, Trời tối đen như mực. Quay đi quay lại thi không thấy còn y tá, hộ lý nào nữa. Rồi bốn anh thương binh cũng tập tễnh dắt díu nhau đi khỏi. Chỉ còn lại ba bà cháu. Súng nổ ngày một gần và đã ngửi thấy mùi thuốc sung khét lẹt. Bà tôi lại cõng hai chị em đứng dậy nhưng bà không thể bước được, suốt ngày không cơm cháo gì và căng thẳng cực độ. Bà đặt chị tôi xuống, rồi bà bật khóc. Bà móc túi lấy một ít tiền, dấu dưới chân tủ, và nghẹn ngào nói với chị tôi: Bà không thể đưa cả hai con đi được. Bà để tiền ở đây, bà đưa em đi, nếu yên bà sẽ quay lại đón con, nếu có làm sao thì con lấy tiền ở đây nhờ người ta chăm sóc. Tôi nhìn chị tôi, chị đã lả đi cũng không còn khóc được nữa chỉ rên từng tiếng đau đớn. Bà tôi cõng tôi, bước ra cửa. Bỗng tôi thấy bà giơ tay vịn khung cửa rồi khụy xuống có lẽ lúc này không phải vì mệt mà là vì trái tim người phụ nữ trong bà đã ứa máu, bà không đủ sức để bước thêm dù chỉ một bước ra khỏi cửa. Bà ngồi xuống rồi quay vào bên cạnh chị tôi, bà vuốt ve, cưng nựng chị tôi, lấy nước cho chị tôi uống. Rồi bà quay sang phía tôi, vuốt tóc, vuốt má nức nở: Cháu ngoan của bà, cháu ngoan nhất của bà…. Chắc lúc này bà nghĩ đến cái chết của cả ba chúng tôi. Bà vừa chăm sóc vừa lắng nghe tiếng súng nổ. Rồi điều may mắn lại đến, tiếng kèn thu quân vang lên, tiếng sung thưa dần rồi im bặt. 

                       

                           Ảnh chụp tại Cục Tuyên Huấn TCCT ( Thái Nguyên, 1951),
                                   trước khi vào trường TSQVN và sang Quế Lâm 
     Đó là ngày đầu tiên trong đời tôi tận mắt nhìn thấy máu lửa chết chóc, trước ngày toàn quốc kháng chiến gần 1 năm. Đó cũng là ngày đầu tiên của tôi bắt đầu cho gần 30 năm rong ruổi giữa hai cuộc chiến tranh. Trong giờ phút gian nan hiểm nghèo nhất, chúng tôi đã qua khỏi là nhờ trái tim thương yêu cao cả sẵn sàng hy sinh thân mình của bà tôi - một người phụ nữ. Không biết nếu không có bà tôi thì chúng tôi sẽ thế nào. Sau đó vài tháng chúng tôi lần lượt gặp lại ông ngoại tôi và cậu tôi trong rừng Trường Sơn, cả gia đình 5 người tiếp tục lặn lội đi ra Bắc : Nha Trang, Huế, Hà Nội, Sơn Tây, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Tuyên Quang, năm 1947 đến Bắc Cạn, Tây nhảy đều Bắc Cạn, lại quay về Thái Nguyên. Rồi vào trường TSQ VN ở Cao Bằng và năm 1951 sang Quế Lâm Trung Quốc.
     
       

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét