TÀI LIỆU THAM KHẢO
Vũ Hồng Lâm
Thời báo
Kinh tế Sài Gòn
03:28'
PM - Thứ hai, 09/06/2014
Tài nguyên địa chính trị là một
khái niệm ít được dùng nhưng bản thân tài nguyên địa chính trị lại được khai
thác và sử dụng thường xuyên. Vận mệnh của một dân tộc, sự thịnh suy của một
quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào tài nguyên địa chính trị của quốc gia ấy, vào
khả năng khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên này
Tài nguyên địa chính trị của Việt Nam hiện nay
Tài nguyên địa chính trị của
Việt Nam là một tổng thể hết sức đa dạng và phức tạp. Tổng thể ấy cấu thành từ
rất nhiều yếu tố. Giá trị và ý nghĩa của từng yếu tố cũng không nhất thành bất
biến. Chẳng hạn Việt Nam là một cửa ngõ của Lào và Campuchia ra biển, nhưng yếu
tố này quan trọng đến đâu còn tùy theo Lào và Campuchia giàu mạnh đến đâu. Tài
nguyên địa chính trị, do đó, không chỉ là địa thế như thuyết địa chính trị cổ
điển vẫn hiểu, cũng không chỉ là cục diện như cách nghĩ của trường phái địa
chính trị Kissinger, mà luôn là sự kết hợp của cái “thế” về địa lý tự nhiên và
nhân văn, với một bối cảnh chính trị và kinh tế quốc tế nào đó. Chính cục diện
chính trị-kinh tế xung quanh Việt Nam sẽ quyết định yếu tố nào là vượt trội, có
tầm vóc chiến lược, trong các tài nguyên địa chính trị của Việt Nam.
Xét tham vọng và tầm với của các
nước lớn hiện nay thì Việt Nam đang nằm trong bàn cờ chiến lược của bốn nước
lớn là Trung Quốc, Mỹ, Nhật và Ấn Độ.
Trước kia, Việt Nam từng đóng
vai trò như là cửa ngõ chính của Trung Quốc thông xuống phía Nam. Nhưng đối với
Trung Quốc hiện nay, vai trò ấy của Việt Nam đã mờ nhạt dần. Chiến lược của
Trung Quốc hiện nay nhằm mở hai đường thông xuống phương Nam. Trên biển, Trung
Quốc đã chiếm quần đảo Hoàng Sa từ năm 1974 và tiếp tục chiếm một số bãi đá ở
quần đảo Trường Sa từ năm 1988. Trên bộ, Trung Quốc kết thân với Myanmar để
mượn đường thông ra Ấn Độ Dương. Trung Quốc đã xây dựng căn cứ quân sự ở
Myanmar và dự định sẽ xây đường ống dẫn dầu từ cảng nước sâu Sittwe bên bờ vịnh
Bengal của nước này lên Vân Nam, Trung Quốc. Với việc từng bước lấn chiếm biển
Đông, Trung Quốc muốn tự mình sở hữu cái “then chốt” trên con đường biển nối
nước họ với Ấn Độ Dương và Đông Nam Á. Vai trò cửa ngõ ra biển của Việt Nam đối
với miền Tây Nam Trung Quốc cũng suy giảm sau khi Vân Nam đã mở đường ra Ấn Độ
Dương qua ngả Myanmar, và Quảng Tây tăng cường phát triển các cảng biển của
mình trên vịnh Bắc Bộ như Khâm Châu, Phòng Thành và giao thông với Vân Nam. Vai
trò chiến lược của Việt Nam đối với Trung Quốc tiếp tục bị hạ thấp sau khi
Trung Quốc thiết lập quan hệ “đối tác chiến lược” với Indonesia vào đầu năm
nay. Indonesia là nước lớn nhất Đông Nam Á về dân số và diện tích nhưng chủ yếu
là có vùng biển nối liền từ Ấn Độ Dương sang biển Đông. Như vậy, chỉ cần kiểm
soát biển Đông, bắt tay với Myanmar và Indonesia, là Trung Quốc bảo đảm lưu
thông tới Ấn Độ Dương, đồng thời có hai gọng kìm kẹp lấy Đông Nam Á.
Việc Trung Quốc tăng cường khống
chế biển Đông và gây ảnh hưởng ở Đông Nam Á, trong bối cảnh Trung Quốc đang
vươn lên thành cường quốc thế giới và lãnh đạo khu vực, đã khiến các nước lớn
Mỹ, Nhật và Ấn Độ đổ dồn con mắt về biển Đông, Đông Nam Á, và tìm biện pháp đối
phó. Là nước muốn đóng vai trò “lãnh đạo thế giới”, Mỹ đương nhiên coi sự trỗi
dậy của Trung Quốc là một mối nguy ở tầm đại chiến lược. Hai nước Nhật và Ấn Độ
không nuôi tham vọng toàn cầu nhưng muốn làm cường quốc châu Á, tất nhiên không
muốn Trung Quốc nổi lên “lãnh đạo khu vực”. Nhật chọn liên minh chiến lược với
Mỹ, đứng dưới sự “lãnh đạo thế giới” của Mỹ để chống lại sự “lãnh đạo khu vực”
của Trung Quốc. Ấn Độ tìm một vị trí “tự do” hơn, nhưng chủ đạo cũng là liên
minh chiến lược với Mỹ. Trên địa bàn châu Á, nổi lên tranh chấp quyền lãnh đạo
khu vực giữa một bên là Trung Quốc và bên kia là trục Mỹ-Nhật-Ấn.
Biển Việt Nam là tài sản, không gian sống cho sự trường tồn và phát triển của dân tộc
Trong bối cảnh đó, biển Đông và
Đông Nam Á trở thành một địa bàn chiến lược trên bàn cờ quan hệ nước lớn. Biển
Đông có tầm quan trọng đặc biệt sống còn đối với Nhật. 90% dầu lửa mà Nhật tiêu
thụ và hầu hết hàng hóa giao dịch giữa Nhật với Trung Đông và châu Âu phải qua
đây. Chỉ cần Trung Quốc “thực thi chủ quyền” của họ trên biển Đông, cổ họng
Nhật coi như nằm trong bàn tay Trung Quốc. Đối với Trung Quốc, biển Đông cũng
có tầm quan trọng sống còn. 80% dầu lửa nhập khẩu của Trung Quốc cũng như phần
lớn hàng hóa thông thương giữa Trung Quốc với châu Âu và Trung Đông đi qua đây.
Biển Đông tuy không sống còn đối với Mỹ nhưng có tầm quan trọng chiến lược. Nó
án ngữ con đường ngắn nhất thông từ Thái Bình Dương sang Ấn Độ Dương, cũng là
một “huyết mạch chủ” của kinh tế khu vực, của Trung Quốc, đối thủ chủ yếu của
Mỹ, và Nhật, đồng minh chính của Mỹ, trong khu vực.
Là nước chiếm giữ phân nửa các
đảo đã bị chiếm trên quần đảo Trường Sa, đồng thời đóng chốt trên một số bãi
ngầm ngoài khơi thềm lục địa Nam bộ, lại có bờ biển chạy dọc theo hải trình
quốc tế, Việt Nam là nước có lợi thế nhất về mặt địa lý trong việc khống chế
biển Đông. Trong số các nước Đông Nam Á, Việt Nam là nước tiếp giáp nhiều nhất
và chiến lược nhất với Trung Quốc, lại có lịch sử lâu dài nhất và kinh nghiệm
dày dạn nhất trong đối xử với Trung Quốc. Do đó, các nước Mỹ, Nhật và Ấn Độ đều
muốn Việt Nam đóng một vai trò tích cực và nếu cần, then chốt trong việc bảo
đảm an ninh biển Đông cho họ và muốn Việt Nam đứng về phía họ trong trường hợp
tranh chấp nước lớn trở nên gay gắt.
Như vậy, từ cuối thập niên 1990,
đầu thập niên 2000, sự trỗi dậy của Trung Quốc đã làm tăng ý nghĩa chiến lược
của biển Đông, Đông Nam Á và Việt Nam trên bàn cờ chiến lược quốc tế. Việt Nam
trở nên có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng đối với Nhật. Với Mỹ, Việt
Nam cũng từ một chương sử cũ trở thành một vị trí chiến lược. Hai nước này đều
muốn Việt Nam trở thành đồng minh quan trọng của họ ở Đông Nam Á. Trong khi ấy thì
tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc với Việt Nam trên biển Đông khiến Việt Nam
không thể đóng vai trò đồng minh chiến lược của Trung Quốc trong khu vực. Ngược
lại, Việt Nam là vật cản lớn nhất trên con đường nam tiến của Trung Quốc.
Chính sách nam tiến của Trung
Quốc là một phần trong đại chiến lược “hòa bình trỗi dậy” của nước này. Con
đường này được Trung Quốc chia làm ba giai đoạn:
- Giai đoạn đầu gọi là “ấp ủ”,
hình thức là bảo vệ, tiêu chí là “chủ quyền lãnh thổ không thể bị chia cắt”;
- Giai đoạn giữa gọi là “tạo
dựng”, hình thức là chủ động, tiêu chí là “thu hồi lại những vùng đất đã mất”;
- Giai đoạn cuối gọi là “kinh
lược”, áp dụng các biện pháp nhằm làm cho cộng đồng quốc tế chấp nhận trật tự
chính trị-kinh tế có lợi cho Trung Quốc, tiêu chí là “đạt đến cân bằng và ổn
định chiến lược”.(*)
Trong đoản kỳ, nhìn nhận thực
lực của mình còn hạn chế, Trung Quốc xác định vẫn ở giai đoạn 1. Về trung hạn,
vào giai đoạn 2 của “hòa bình trỗi dậy”, Trung Quốc sẽ tìm cách “thu hồi chủ
quyền” trên biển Đông và Đài Loan. Trong dài hạn, vào giai đoạn 3, Trung Quốc
sẽ đảm lãnh vai trò cầm trịch trật tự ở khu vực và thế giới. Cùng lúc với Trung
Quốc, các cường quốc khác cũng có đại chiến lược của mình, mà về cơ bản cũng có
thể chia làm ba giai đoạn tương tự như của Trung Quốc. Tuy nhiên, do thực lực
mạnh hơn nên Mỹ đã ở giai đoạn 3 và Nhật đã ở giai đoạn 2 trên con đường trỗi
dậy riêng của họ. Mỹ cho việc họ chi phối trật tự thế giới, can thiệp vào các ổ
bất ổn là trách nhiệm của họ. Nhật đang tiến tới mở rộng phạm vi hoạt động của
lực lượng vũ trang, mở rộng khu vực lợi ích sống còn của họ. Trong khi đó thì
Ấn Độ mới đang ở thời kỳ đầu của giai đoạn 1. Tất cả những điều này tạo ra tính
phức tạp của một cuộc tranh đua quyền lực nước lớn nhiều giai đoạn cùng một
lúc. Việt Nam cần hết sức sáng suốt và quyết đoán để chèo lái thành công trong
vùng nước xoáy này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO :
ĐỊA CHÍNH TRỊ ( Kỳ 1)
TÀI LIỆU THAM KHẢO :
ĐỊA CHÍNH TRỊ ( Kỳ 1)
Nhìn từ góc độ chiến lược thì bài viết khá đúng và tương đối thỏa đáng , nhưng không nói gì đến yếu tố Nga có lẽ là điều cần suy nghĩ thêm, điểm nữa là cần đi sâu thêm vai trò địa chính trị của Ấn ĐÔ, thực ra về an ninh TQ bị kep vào giữa 3 thế lực phia Băc là Nga, phia tây ÂN độ, phia đông Nhật Mỹ ,con phia nam VN nhỏ yếu nhưng lại có vị trí quan trọng với chiên lược của TQ là sức cản chủ yêu trong ý đồ độc chiêm biển đông,để đối phó Mỹ Nhât, TQ ve vãn Nga hòa ở phia bắc để giư an ninh, tranh thủ hòa hoãn với Ấn ơ phía tây cũng nhằm rảnh tay tiến xuông phia nam, ở ĐNA thi tim cách tranh thủ Inđonesia, Miama, ép va cô lâp VN, PLP , nhưng khó làm với Phi vì đằng sau có Mỹ, VN xem ra là mục tiêu hàng đầu hiện nay, họ không tư bỏ chiến lược " hai mặt" vừa ép vưa lôi kéo, hiện mặt ép la chủ yếu. Ta không hy vọng gì ở Nga, Mĩ Nhật là nhân tố chủ yếu, Ân độ là "đôi trọng " vậy nhưng vưa qua ta rât coi nhẹ An ĐỘ , càng không khai thác nhân tố Mỹ Nhật , rơi vào cô lâp và yếu thế với TQ. VN vẫn có vị thế địa chiến lược rất quan trọng, My ,Nhật Ân đêu coi trong vi thế của ta, TQ cũng không thể cứ đẩy ta về phía liên minh N-M không có lợi cho họ trong tập họp lực lương,van đề là ta chưa gơ được sự rối rắm phức tap về chiên lược, chưa lợi dung được thế manh của chính mình, còn tiếp tục như thế thi rất khó thoát ra được, không phải không có hy vọng ,then chốt là BLĐ có nhận thức được không và có những bước điều chỉnh cần thiết hay không và phải làm ngay.không thể chậm trễ.
Trả lờiXóaCụ CL quả là một nhà NG có tầm cỡ chiến lược. Bài này không nói đến Nga đúng là còn thiếu. Có thể tác giả suy nghĩ rằng điều quan tâm nhất với Nga là Đông Âu, do đó vai trò và sự quan tâm của Nga về VN trong vị trí ở Biển Đông không lớn.
XóaTài nguyên địa chính trị của VN làm cho đất nước chúng ta có vị trí rất quan trọng nên chúng ta luôn phải gánh chịu sức ép của nhiều phía. Thế kỷ 20 VN là tiền đồn của cuộc đấu tranh của ý thức hệ, thế kỷ 21 VN lại là tiền đồn của cuộc đấu tranh giữa những cường quốc hiện hữu và một cường quốc đang trỗi dậy. Mong rằng các nhà LĐ hiểu được vị trí, vai trò cùng những thách thức và những cơ hội của đất nước để có hướng đi đúng đắn, giải nguy cho và phát huy được vị thế của VN.