Thứ Ba, 22 tháng 4, 2014

NHỮNG ĐIỀU CÒN ÍT BIẾT VỀ CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ

Quân Pháp đã  “giúp” chúng ta 2 việc quan trọng góp phần vào chiến thắng Điện Biên Phủ.

1      1. Ngày 20/11/1953 khi Pháp cho quân nhảy dù chiếm Điện Biên
Phủ, trung đội trinh sát 62 thuộc tiểu đoàn trinh sát 426 của Bộ tổng tham mưu đang trên đường hành quân hướng Lai Châu, được lệnh rẽ về Điện Biên Phủ với nhiệm vụ bám sát, điều tra Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, đề phòng địch rút chạy.
 Đến đêm ngày 24/12/1953,   tổ trinh sát 426 gồm 6 đồng chí: Trần Phận trung đội trưởng C 62D – Tổ trưởng; Phạm Văn Mát, Trần Văn Chế, Trần Văn Tốn, Trần Văn Linh và một đồng chí trinh sát viên (đã hi sinh, chưa xác định được tên tuổi) thuộc C 62 được phái đi trinh sát khu vực Đông Nam sang Tây Nam sân bay Mường Thanh. Nhiệm vụ của tổ là điều tra công sự trận địa địch; thu thập giấy tờ vương vãi và dù hàng tiếp tế của địch; rình nghe động tĩnh, có điều kiện thì phục bắt tù binh. Trên đường vào trinh sát đồn địch, tổ phát hiện một dù hàng màu đỏ trong có nhiều hòm gỗ, khi mở hòm có 32 ảnh hàng không cỡ to và 25 tấm bản đồ với đầy đủ các chi tiết bình độ, địa hình về khu vực lòng chảo Điện Biên Phủ và các vùng lân cận, tỉ lệ1/25000 của địch mới in ấn và do máy bay thả dù xuống cho các cấp chỉ huy của Tập đoàn cứ điểm. Xác định được đây là chiến lợi phẩm quan trọng, các chiến sỹ ta đã lập tức mang về đại đội và báo cáo Sở chỉ huy tiền phương. Những tấm bản đồ đoạt được từ tay địch đã được Bộ chỉ huy chiến dịch chuyển về hậu phương in cấp tốc kịp thời phân phát tới các cấp tiểu đoàn và cán bộ binh chủng góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của toàn chiến dịch. Với thành tích trên Tổ trinh sát thuộc đại đội 62 tiểu đoàn 426, Cục Quân báo đã được tặng thưởng Huân chương chiến công và đây cũng là những huân chương đầu tiên của chiến dịch. Riêng đồng chí Trần Phận được thưởng Huân chương chiến công hạng Hai.


     2.Giữa tháng 4, để chuẩn bị cho đánh lớn, đạn đại bác 105 ly của ta đã gần cạn, nếu không có đạn pháo thì không thể tiếp tục tấn công.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp kể: “Phải điện khẩn nhờ bạn Trung Quốc chi viện, nhưng Trung Quốc cũng rất hiếm đại bác 105 ly, vét các kho được 7.400 viên, chuyển sang gấp cho ta. Nhưng số này mãi đến cuối tháng 5/1954 mới tới Việt Nam, khi đó trận đánh Điện Biên Phủ đã kết thúc”.
   Vậy đạn đâu để đánh? Bộ chỉ huy quân Pháp tập trung thả dù tiếp tế cho tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Họ biết rất rõ việc làm bất đắc dĩ này đã cung cấp cho quân đội Việt Nam từng ngày, số lượng bao nhiêu, những chủng loại gì: vũ khí, đạn dược, lương thực…Biết rất rõ mà không có cách nào hạn chế, khắc phục được. Biết mà vẫn cứ phải tiếp tục làm với số lượng ngày một nhiều hơn, với thời gian không phải là 1 – 2 ngày, 1 – 2 tuần mà kéo dài suốt 34 ngày. Pháp đã huy động 100% lực lượng không quân để tiếp tế cả ngày, cả đêm vẫn không đáp ứng cho cái dạ dày Điện Biên Phủ. Phải nhờ cả máy bay vận tải loại mới của Mỹ để thả dù tiếp tế cho Điện Biên Phủ.
Và…Không quân Pháp đã thả dù sang trận địa ta, tổng cộng 5.000 viên đại bác 105 ly. Nếu không có sự “tiếp tế” của địch có lẽ trận đánh không thể thắng lợi vào ngày 7/5.

Xe đạp lên ngôi vua vận tải
   Theo tính toán, một người gánh 25 kg gạo, dọc dường bản thân người gánh ăn mất 24 kg,  như vậy lên đến ĐBP chỉ còn 1kg. Mỗi xe thồ lúc đầu chở được 100 kg, sau đó nâng lên 200, 300 kg, Có một dân công ở Phú Thọ, anh Ma Văn Thắng chở được 352 kg. Năng suất xe thồ gấp 10 lần dân công gánh bộ. Gạo ăn dọc đường cho người chuyên chở cũng giảm đi 10 lần. Như vậy 1 dân công với chiếc xe đạp thồ bằng 100 dân công gánh bộ. Đội quân xe đạp thồ xuất hiện ở Điện Biên là một sự kỳ diệu chưa từng có trong lịch sử chiến tranh, không chỉ ở Việt Nam mà cả lịch sử chiến tranh thế giới.

Trận đánh của cả nước
Lần đầu tiên và cũng là sự kiện có một không hai trong lịch sử đánh giặc ngoại xâm của dân tộc ta, dân ra mặt trận nhiều hơn quân đội. kế hoạch triển khai 50.000 nam và nữ quân nhân tham gia chiến đấu và 20.000 dân công hỏa tuyến ở mọi lứa tuổi tham gia tiếp tế.Chỉ tính riêng đội quân xe đạp thồ (hơn 2 vạn) đã đông hơn số quân chủ lực.
Chưa tính và không thể nào tính hết được biết bao nhiêu dân công tiếp lương, tải đạn, làm đường suốt biên giới trở về, từ đồng bằng khu 3, khu 4, Trung Du ngược lên, trên mọi nẻo đường. Dân nuôi quân, che chở, chăm lo từng bước quân đi.
Trên mọi mặt trận từ đồng bằng, khu 3, khu 4, Bình Trị Thiên, miền Trung, khu 5, Tây Nguyên cho đến Nam Bộ - ở đâu đâu, bất cứ trận đánh lớn nhỏ, đánh sân bay, kho tàng, đánh thật hoặc đánh nghi binh... tất cả đều đặt lên hàng đầu một mục tiêu là: phối hợp với mặt trận Điện Biên Phủ.
Trung ương Đảng và Chính phủ động viên toàn dân dốc sức chi viện cho trận Điện Biên Phủ. Một tổ chức đặc biệt được thành lập là Hội đồng cung cấp trung ương do đồng chí Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch. Thời gian này ở lại hậu phương phần lớn chỉ là người già yếu và trẻ em. Chưa bao giờ khát vọng vì độc lập tự do, ý chí, tinh thần của dân tộc Việt Nam "quyết tâm đánh thắng giặc, tất cả cho tiền tuyến" lại trở thành sức mạnh vật chất một cách cụ thể, hùng hậu đến như vậy.
Trên mọi mặt trận từ đồng bằng, khu 3, khu 4, Bình Trị Thiên, miền Trung, khu 5, Tây Nguyên cho đến Nam Bộ - ở đâu đâu, bất cứ trận đánh lớn nhỏ, đánh sân bay, kho tàng, đánh thật hoặc đánh nghi binh... tất cả đều đặt lên hàng đầu một mục tiêu là: phối hợp với mặt trận Điện Biên Phủ.
Có thể nói rằng: mùa xuân năm 1954 - cả nước Việt Nam đánh trận Điện Biên Phủ.

   Sự cố không may, quân Pháp ở ĐBP biết được ngày giờ tấn công của quân ta là chiều ngày 25/1/1954… nhưng cũng chính đêm 25 tháng 1 ấy đã trở thành một mốc son lịch sử.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp kể: “Ngày 25/1/1954 có một sự cố không may xảy ra, một chiến sĩ của Đại đoàn 312 bị địch bắt. Sau đó ta đã bắt được điện đài của địch gọi báo cho nhau: Việt Minh sẽ tấn công chiều 25/1 (thực tế sau này mới biết là do cơ quan hậu cần của ta điện báo cho nhau nên địch biết tin, không phải do chiến sĩ bị bắt). Vì thế Bộ chỉ huy quyết định hoãn lại 24 giờ, chuyển sang 26/1.
Trung tuần tháng 1/1954, ta đã chuẩn bị xong để tiến công Điện Biên Phủ. Về lực lượng: Ta có 27 tiểu đoàn bộ binh, địch có 12 tiểu đoàn (27/12); trọng pháo yểm trợ cho bộ binh ta có 64 khẩu, địch có 48 (64/48); pháo của ta đặt trên núi hướng xuống các vị trí tập đoàn địch ở lòng chảo; địch có 5 chiếc xe tăng loại nhẹ và có máy bay yểm trợ từ xa. Nhưng ta có 4 đại đội súng cối 120 ly 16 khẩu; 1 trung đoàn cao xạ pháo 37 ly 24 khẩu và rất nhiều súng DKZ (loại súng chống xe tăng) trang bị đến từng đại đội.
Phương án ban đầu là đánh nhanh thắng nhanh.

Cả đêm 25/1, Đại tướng Võ Nguyên Giáp suy nghĩ và thấy ba khó khăn hiện lên rất rõ:
Một là, bộ đội chủ lực của ta cho đến nay chỉ mới đánh tiêu diệt 1 tiểu đoàn địch có công sự vững chắc, nếu các công sự nằm liên hoàn trong một cứ điểm quân số 1 tiểu đoàn như ở Nà Sản, ta đánh đã không thành công, và bị thương vong nhiều.
Hai là, trận này là một trận đánh hợp đồng lớn, pháo binh và bộ binh chưa qua tập luyện, chưa qua diễn tập, vừa qua có trung đoàn trưởng xin trả lại pháo vì không biết phối hợp như thế nào.
Ba là, bộ đội ta từ trước tới nay chỉ quen tác chiến ban đêm ở những địa hình dễ ẩn náu, chưa có kinh nghiệm tấn công đồn ban ngày trên địa hình bằng phẳng, nhất là với một kẻ địch có ưu thế tập trung máy bay, pháo binh, xe tăng chi viện.
Lắng nghe, suy nghĩ ý kiến báo cáo của các tướng lĩnh từng sát cánh trong Bộ chỉ huy với ông, gần gũi nhất là đồng chí Hoàng Văn Thái, trăn trở về ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng, chắc thắng mới đánh, không chắc thắng là không đánh, thất bại là hết vốn”, suy nghĩ suốt đêm 25/1, Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp quyết định phải cho lui quân. Phải họp ngay Bộ tư lệnh vào sáng hôm sau.
Trong cuộc họp Đảng ủy, Bộ chỉ huy mặt trận, Đại tướng trình bày các suy nghĩ của mình. Mọi người tuy trong lòng có những điều phân vân trước trận đánh. Nhưng nói chung ai cũng muốn cho đánh ngay. Với hy vọng vẫn có khả năng giành thắng lợi.
Ý kiến chưa thống nhất nên cuộc họp phải tạm dừng.
Tuy nhiên, sau đó mọi người phát biểu không ai tin rằng trận này sẽ chắc thắng, mà chỉ cho rằng có thể thắng.
Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp quyết định hoãn cuộc tấn công chiều hôm đó.
Lệnh lui quân được ban hành đến toàn mặt trận vào buổi chiều.
Tất cả các đơn vị lập tức lui về vị trí tập kết. Pháo lại phải kéo ra. Việc kéo pháo ra còn gian khổ nguy hiểm hơn nhiều so với kéo pháo vào. Máy bay địch liên tục trinh sát, ném bom quanh Điện Biên Phủ.
     Để có ngày chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954; một mốc son trong lịch sử của dân tộc Việt Nam, cần ghi nhận một ngày rất quan trọng đó là ngày 25/1/1954, một bước ngoặt cho trận đánh Điện Biên Phủ, một quyết định vô cùng quan trọng không chỉ đối với quân đội ta ở Điện Biên Phủ mà còn với cả vận mệnh của dân tộc và Tổ quốc Việt Nam, không có quyết định trong ngày đó thì không biết có chiến thắng ngày 7/5/1954 hay không.
   Sau này, một số tướng lĩnh nổi tiếng của Quân đội ta khi nhớ về quyết định lui quân lịch sử ngày 26/1/1954 đã nói rằng nếu không có nó có thể cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta đã phải kéo dài thêm nhiều năm và nhiều người trong số họ đã không thể có mặt ở ngày chiến thắng.
Trong vòng gần 2 tháng trời sau đó, quân ta đã nghi binh đánh lạc hướng địch, và mở đường rộng hơn, dài hơn chung quanh núi rừng Điện Biên Phủ, lại kéo pháo vào, xây dựng công sự kiên cố hơn. Quân ta lại đào hào sâu hơn, tiếp cận gần hơn căn cứ của địch, lương thảo, vũ khí từ hậu phương dồn lên cho mặt trận nhiều hơn. Quân sĩ chuẩn bị đầy đủ cho trận đánh dài ngày, có thể sang đến cả mùa mưa. 
   Chiều 13/3/1954. Mặt trận dần dần lặn sau dãy núi phía Tây Điện Biên Phủ. Chiếc máy bay khu trục cuối cùng của quân Pháp vòng trở đầu về phía Đông theo hướng Hà Nội.
Sương buông nhẹ trên lòng chảo Điện Biên. Toàn mặt trận yên ắng lạ thường. Đại tướng Võ Nguyên Giáp gọi điện cho chỉ huy sở pháo binh: “Pháo binh đã sẵn sàng chưa?”
Quyền tư lệnh Đào Văn Thường trả lời: “Báo cáo tất cả đã sẵn sàng, chờ lệnh Bộ chỉ huy”.
Vì có sương mù nên các đơn vị bộ binh đề nghị cho tấn công sớm. Đại tướng đồng ý và dõng dạc ra lệnh: “Chiến dịch lịch sử bắt đầu, pháo binh bắn, bắn thật mạnh, bắn cấp tập”.
Cùng lúc, toàn bộ lực lượng pháo binh ta 40 khẩu đồng loạt nhả đạn.

Lúc đó là 17 giờ 05 ngày 13/3/1954.

1 nhận xét: