Kỳgai : Nhiều nhà nghiên cứu nói rằng: nước Mỹ không thực sự theo chế độ tam quyền phân lập, mước Mỹ cũng do độc đảng lãnh đạo, và nước Mỹ cũng có ... Bộ chính trị ? Xin mời xem bài dưới đây của tác giả VTK, có thể cũng có một cái nhìn rộng hơn.
Thưa Quý vị
Quan tâm.
Hôm nay, nhân đọc bài “Hệ thống Siêu Quyền Lực Ẩn Danh”, chúng tôi
xin lạm bàn đôi điều liên quan đến bản Hiến Pháp Hoa Kỳ.
HIẾN-PHÁP
HOA-KỲ ĐỘC ĐÁO KHÔNG GIỐNG AI
Trên thế giới ngày nay, Hoa Kỳ là một Siêu Cường Quốc số 1, Hiến Pháp Hoa Kỳ
bảo đảm cho quyền Tự Do của công dân tối đa. Nhưng đặc biệt nhứt là Hiến-Pháp
Hoa-Kỳ cũng độc đáo, không giống bất cứ quốc gia nào!
Sau đây là vài đặc điểm khác biệt của Hiến Pháp Hoa Kỳ :
1.- Vấn đề bầu cử :
Bầu cử vị Tổng thống Hoa Kỳ, người thắng cử Tổng thống không do số phiếu “phổ
thông” do dân bầu, mà lại căn cứ vào số phiếu của “Cử Tri Đoàn” (hay còn gọi là
phiếu Đại Cử Tri).
2.- Chủ tịch Thượng viện :
Vị Chủ tịch Thượng Viện (Lập Pháp) không do Thượng Viện bầu chọn, mà là do Hiến Pháp chỉ định sẵn là Vị Phó
Tổng Thống (Hành Pháp) kiêm nhiệm.
3.- Chủ tịch Tối Cao Pháp Viện :
Cũng tương tự như Thượng Viện, vị Chủ Tịch TCPV(Tư Pháp) không
do Hội Đồng TCPV bầu chọn, mà lại do Tổng Thống (Hành
Pháp) chỉ định.
4.- Quyền “ngâm tôm” các “Dự Luật”:
Tại Tối Cao Pháp Viện & Thượng Viện, mỗi Viện đều có một ủy ban đặc biệt có
quyền “ngâm tôm” một đơn “khiếu kiện” hay một “Dự Luật”, của cá nhân hay cơ
quan nào đó, nếu Ủy Ban nầy xét thấy “bất lợi” cho chánh sách của quốc gia. Xin
đơn cử ra đây một vài thí dụ :
a.- Tối Cao Pháp Viện đã “ngâm tôm” đơn khiếu kiện của các Toà Án dưới về cái Giấy
Khai Sanh của ứng cử viên tổng thống Obama. Theo luật, ứng cử viên tổng thống phải
sanh ra tại Mỹ. Nhưng ông Obama lại sanh ra tại Kenya (Phi Châu) và “hợp thức
hoá” tại Hawaii (tương tự giấy Thế Vì Khai Sanh)…
b.- Thượng Viện đã “ngâm tôm” không đem ra phê chuẩn Công Ước Quốc Tế về Biển
Đông năm 1982 (UNCLOS)…
c.- Thượng viện đã “ngâm tôm” các Dự Luật đòi trừng phạt CS Hànội về các vụ đàn
áp đối lập, vi phạm Nhân quyền…
Thoáng nhìn, chúng ta thấy có những cái bất hợp lý như:
*Ví dụ như ở điểm (1) về Bầu cử Tổng thống, lá phiếu của cử tri phổ thông không
“giá trị” bằng lá phiếu của “Cử Tri Đoàn”.
*Ví dụ ở điểm (2), ông Phó Tổng thống thuộc Hành Pháp lại làm Chủ Tịch Thượng
Viện (Lập Pháp). Tại sao Thượng Viện không tự bầu ông Chủ tịch của mình như ở
Hạ Viện ??? Thiệt là… tréo cẳng ngỗng ! (Hành
Pháp làm xếp Lập Pháp).
*Ví dụ như ở điểm (3), tại sao Tối Cao Pháp Viện (Tư
Pháp) lại không tự bầu vị Chủ tịch của mình mà lại do Tổng thống chỉ định ?
Tức Hành Pháp “xếp” luôn cả Tư Pháp !
Vậy thì làm sao có TAM QUYỀN PHÂN LẬP cho thật đúng ý nghĩa trong Hiến Pháp của
Hoa Kỳ?
*Ví dụ như ở điểm (4) về quyền “ngâm tôm” các đơn Khiếu Kiện ở TCPV và quyền
“ngâm tôm” các Dự Luật ở Thượng Viện. Tại sao chỉ có “một vài người” nào đó ở
TCPV hay Thượng Viện lại có cái quyền đó ? Nhìn kỹ, ta sẽ thấy, như ông Chủ
tịch Thượng Viện (Phó Tổng thống) cho “ngâm tôm” đạo luật nào đó vì bất lợi cho chánh sách “đối ngoại” của
Tổng Thống (Hành Pháp). Và vị Chủ tịch TCPV cũng cho “ngâm tôm” các đơn khiếu kiện… cũng vì bất
lợi, có thể gây khủng hoảng cho Quốc gia? v.v...
Thiệt là điên cái đầu !
Đành rằng Hiến Pháp có một số điều tréo cẳng ngỗng như vậy nhưng không có bất
cứ người dân Mỹ nào “khiếu nại”. Có thể chính những cái “tréo cẳng ngỗng” đó đã
bảo đảm cho chánh sách đối ngoại của Mỹ vững mạnh… mà trên thế giới nầy chỉ có nước Mỹ áp dụng được,
không có bất cứ quốc gia nào dám bắt chước. Biết vậy, thấy vậy, nhưng bảo giải
thích rõ hơn thì chúng tôi đành… chịu thua!
Đặc biệt nước Mỹ theo chế độ Lưỡng Đảng. Đảng Cộng
Hoà và Đảng Dân Chủ thay nhau lên cầm quyền. Và cũng theo Hiến Pháp Hoa Kỳ, người dân có
quyền ứng cử Tổng thống hay các vị Dân Biểu, Nghị Sĩ, nhưng trước tiên họ phải thông
qua “Bộ Máy Sàng Lọc” trong mỗi Đảng. Phải chăng điều nầy đã lấy mất đi
cơ hội của những người ngoài 2 Đảng CH & DC không được ra ứng cử?
Thật ra không phải bất cứ người dân Mỹ nào cũng thích tham gia việc chánh trị.
Nếu muốn tham gia chánh trị, họ có thể tham gia một trong hai Đảng (gọi là cánh Hữu hoặc
cánh Tả). Và người Đảng nầy cũng có
quyền bỏ phiếu cho Đảng khác, hoặc bỏ Đảng nầy theo Đảng kia...
Tóm lại, vị Tổng Thống Hoa Kỳ do Hệ Thống Siêu Quyền Lực Ẩn Danh lựa
chọn thông qua “bộ máy sàng lọc”
trong mỗi Đảng, và sau đó lại qua lá phiếu của “Cử Tri Đoàn” (tức Hệ
thống Siêu Quyền Lực Ẩn Danh)!
Do
đó, chúng tôi không ngạc nhiên, vì sao TT Obama, một kẻ hầu như vô
danh, nhưng vì mục tiêu “chiến lược”nào đó lại được chọn đưa lên làm TT Hoa Kỳ.
Và khi vừa đắc cử Tổng thống, ông đọc một bài diễn văn “hiền khô”, cho nên được
tặng ngay cái Giải Nobel Hoà Bình thơm phức. Và rồi người ta thấy TT Obama rút
quân vô điều kiện tại Iraq , Afghanistan , thả các tù khủng bố gộc… TT Obama
không cho lực lượng SEAL giải cứu Toà Đại Sứ Mỹ bị khủng bố tấn công… Và Obama tuyên bố không đưa quân đội can thiệp
ở nước ngoài, v.v…
Tất cả điều đó là những tín hiệu báo cho các “thế lực thù địch” (đặc
biệt là TC) biết, cứ tha hồ làm trời ở Á Châu đi, đừng có sợ nước Mỹ can
thiệp. Bởi vì nước Mỹ dưới thời TT Obama là con… “quịt què”, lại thêm “con
gà nuốt dây thun” John Kerry “Vua” phản chiến nữa… thì kể như bọn
trùm khủng bố quốc tế yên chí lớn !
Nhưng nói vậy mà không phải vậy. TT Obama đi theo cái Road Map của Nhóm Siêu
Quyền Lực. Từ sau rút khỏi Việt Nam năm 1975, Hoa Kỳ coi như rút khỏi Á Châu,
nhường “sân chơi” lại cho Trung Cộng, mặc sức tung hoành ngang dọc. TT Obama dĩ
nhiên cũng phải tiếp tục chơi đòn hoả mù lừa địch.
Và rồi thật bất ngờ, năm 2012 Obama tung ra chánh sách XOAY TRỤC về Á Châu -
tức là đòn “Hồi Mã Thương” khiến mấy anh Tàu Phù bị sập
bẫy !
Tóm lại, chúng tôi nghĩ rằng : Nước Mỹ có hai Đảng, nhưng chỉ có duy nhứt MỘT Bộ Chánh Trị :
Đó là “Hệ thống Siêu Quyền Lực Ẩn Danh” .
Xin mời quý vị đọc tiếp bản tài liệu tham khảo dưới đây, may ra có thể giải
thích được phần nào về các yếu tố làm nên bản Hiến Pháp Hoa Kỳ. Tác giả bản tài
liệu nầy có chỗ “chê” hệ thống chánh trị của nước Mỹ... Tuy nhiên ta cứ đọc để
biết cách vận hành của các thế lực bên trong hoặc đàng sau hậu trường chánh trị
nước Mỹ đầy phức tạp.
Xã luận - Nguyệt San Đỉnh Sóng Số #17 (tháng 11/2012)
Nhóm từ "Tập Đoàn Tài
Phiệt" là phỏng dịch của hai chữ "Financial Oligarchy".
Từ ngữ "Oligarchy - tập đoàn" có nghĩa đen là "một số
người cai trị hay chỉ huy" và nghĩa rộng là một hình thức cơ chế chính
quyền trong đó quyền bính thực sự thuộc về một thiểu số người. Những
người nầy có thể được phân biệt qua giai cấp hoàng tộc, đảng phái - hay đúng
hơn, Bộ Chính Trị -, liên hệ gia
đình, học vấn, tập đoàn, độc đảng như Đảng Cộng Sản, hay quyền hành quân
sự. Những quốc gia như thế thường được kiểm soát bởi một số ít gia đình
thượng đẳng truyền lại ảnh hưởng của họ từ thế hệ nầy sang thế hệ tiếp
theo.
Xuyên suốt lịch sử, các tập
đoàn đều độc tài (dựa trên sự phục tùng của dân chúng mà tồn tại) hay tương đối
ít khắc nghiệt hơn. Arsitote đi tiên phong trong việc xử dụng từ ngữ trên
như là một đồng nghĩa cho sự cai trị của những người giàu; nhưng từ oligarchy không luôn luôn
là sự cai trị bằng của cải, vì những tập đoàn có thể đơn thuần là một nhóm được
ưu đãi, và không nhất thiết liên kết bằng huyết thống như trong một nền quân
chủ.
Lịch sử cận và hiện đại có khá
nhiều hình thức cai trị tập đoàn: Liên Hiệp Âu Châu, Liên Xô cũ, Nam Phi, Hoa
Kỳ v.v. Nhưng bài viết nầy không đề cập đến những hình thức chính trị tập đoàn
và chỉ muốn nhấn mạnh trên tập đoàn tài phiệt (Financial Oligarchy).
Một số tác giả đương thời đã
nhận định rằng hiện tình chính trị ở Hoa Kỳ mang tính chất tập đoàn tài phiệt
trong bản chất.
·
Simon Johnson viết rằng "sự tái trỗi dậy của tập đoàn tài phiệt Mỹ thực
sự là mới đây". Đó là một cơ chế mà ông cho là tân tiến nhất thế
giới.
·
Jeffrey A. Winters cho rằng "tập đoàn và dân chủ hoạt động bên trong
một hệ thống duy nhất, và chính trị Hoa Kỳ là một biểu hiện hằng ngày của đối
tác đó."
·
Bernie Sanders cho rằng một "tầng lớp thượng lưu của những gia đình cực
kỳ giàu sang có xu thế địa ngục nhằm tiêu diệt viễn ảnh dân chủ của một giai
cấp trung lưu mạnh đã từng làm thế giới phải ganh tỵ Hoa Kỳ. Thay vào đó, họ đã
cương quyết tạo ra một tập đoàn trong đó một số ít gia đình kiểm soát đời sống
kinh tế và chính trị của quốc gia."
Giới lãnh đạo chính trị và kỹ
nghệ tài chánh Hoa Kỳ gần đây đã bị chế ngự bởi những người liên kết với
Harvard và Yale. Tất cả năm thành viên của Tối Cao Pháp Viện hiện
thời đều đã theo học tại các trường luật Harvard hay Yale. Sandra Day
O'Connor là
thành viên cuối cùng được Tổng Thống Ronald Reagan bổ nhiệm và không theo học
đại học nào trong hai đại học vừa nói. Ronald Reagan cũng là tổng thống Hoa Kỳ
cuối cùng không theo học ở Harvard hay Yale.
Sau Đệ Nhị Thế Chiến các chế
độ quân chủ đúng nghĩa hầu như không còn tồn tại ngoại trừ một vài quốc gia ở
Trung Đông, Phi Châu... Thay vào đó là những chế độ quân phiệt (militrary
oligarchy), trong đó một tướng lãnh hay một tập đoàn gồm một số tướng lãnh
nắm quyền cai trị quốc gia, có hoặc không có hiến pháp. Một hình thức hệ thống
chính trị khác nữa là các chế độ Cộng Sản độc đảng trong đó quyền hành nằm
trong tay một Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng, có hoặc không có hiến pháp. Trái
ngược với những thể chế vừa nói là các nền dân chủ đại để với hệ thống chính
trị đa đảng, có hiến pháp nhất định, và cai trị bằng luật pháp hiến định, có sự
phân quyền giữa ba ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp, phần lớn được định
đoạt qua phổ thông đầu phiếu, tất cả dựa trên tiền đề căn bản là tự do của giới
bị trị: tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại
v.v.
Một cách chính thức, hệ thống
chính trị của Hoa Kỳ mang đầy đủ những thuộc tính và cơ chế nói trên. Thông
thường người Mỹ và thế giới bên ngoài vẫn xem hệ thống chính trị đó như là một
hệ thống lưỡng đảng, Đảng Cộng Hòa và Đảng Dân Chủ, tranh đấu nhau để tranh thủ
cử tri và quyền chính. Cũng như các nên dân chủ Âu Châu, chúng chủ yếu
khác nhau nhờ vào những tiền đề đối nghịch sâu sắc về nguyên tắc và thế giới
quan, như khác nhau giữa Cánh Tả và Cánh Hữu.
Tuy nhiên, theo nhận định của
một số học giả, đó chỉ là phiên bản chính thức; và đó là một phiên bản mang
tính dối gạt, phờ phỉnh. Hoa Kỳ thực chất
là một hệ thống chính trị độc đảng với hai cánh
(wings) hay hệ phái (factions) của cùng một đảng duy nhất tiềm ẩn (hidden).
Đảng tiềm ẩn nầy hỗ trợ cả hai hệ phái, cung ứng những cán bộ và tiền của cho
các cuộc vận động của cả hai cánh và dứt khoát hoàn thành những mục tiêu của
chính nó thông qua thực lực của cả hai cánh nầy.
"Đảng
chính trị đích thực của Hoa Kỳ là một đám tài phiệt gồm một số ngân hàng và tập
đoàn - đặc biệt là thành phần thiểu số 1% hay thậm chí ít hơn, gồm khoảng 400
nhân vật nắm quyền kiểm soát số tài sản lớn hơn cả tài sản của 155 triệu người
Mỹ gộp lại." Thành phần thiểu số nầy nắm
trong tay phần lớn những nguồn tài chánh và những tài nguyên khác và có trong
tay cả ảnh hưởng lẫn quyền kiểm soát đối với hai cánh vốn chỉ tranh biện nhau
qua những vấn đề nhỏ nhặt, hình thức và cá nhân. Chúng không bao giờ cho
thấy sự khác biệt hay tra hỏi về những vấn đề thực sự quan trọng như quyền hạn
(right) của tập đoàn tài phiệt (thường được mệnh danh là financial
oligarchy hay corporatocracy)
trong việc cai trị và khai thác những quyền lợi quốc gia, đừng nói đến chuyện
đề xướng một giải pháp thay thế cho nó. Đó là một loại siêu quyền lực khiến
người ta liên tưởng đến một chế độ toàn trị giả định mà Alexis de Tocqueville
đã mô tả ở thế kỷ 19 trtong tác phẩm "De
l'esprit des lois", "Một
uy quyền như thế không tiêu diệt hiện hữu, nhưng ngăn cản hiện hữu; nó không
độc tài, nhưng nó giam hảm, làm suy nhược, dập tắt, và vô hiệu hóa một dân tộc,
cho đến khi mọi quốc gia bị giản lược thành không gì hơn là một đàn thú nhút
nhát và cần cù do chính phủ đứng chăn. Sự hiện hữu thê thảm nầy được người dân
chấp nhận, vì họ đi qua những tiến trình bầu bán những người bảo vệ của họ, tự
đánh lừa mình rằng họ và những đồng bào của họ vẫn còn tự do vì họ tham gia vào
tiến trình tự cai trị. Tuy
nhiên, khi nhà nước vú em bành trướng, lá phiếu trở nên kém phần hiệu lực và cá
nhân càng lúc càng mất quyền bầu cử. "
Carrol Quigley, một sử gia lỗi
lạc thẳng thắn nhận định,"Quả là một ý tưởng điên rồ nếu cho rằng
hai đảng đại diện cho những tư tưởng và chính sách đối nghịch - một của Cánh
Hữu và một của Cánh Tả. Ý tưởng đó chỉ có thể được chấp nhận đối với những tư
tưởng gia hàn lâm và giáo điều mà thôi. Thay vì thế, hai đảng hầu
như là một, cho nên người Mỹ có thể dùng lá phiếu để ''vứt bỏ bọn bất lương"
trong một kỳ bầu cử nhưng vẫn không đưa đến những chuyển quyền sâu sắc hay
triệt để về chính sách." Tocqueville
nói rõ thêm, "Những người đương thời của chúng ta thường bị kích động
bởi hai tham vọng mâu thuẫn nhau: họ vừa muốn bị dẫn dắt lại vừa muốn tự
do. Vì không thể tiêu diệt một trong hai xu hướng trái ngược đó nên họ cố
thỏa mãn cả hai cùng một lúc. Họ thiết kế một hình thức chính phủ độc nhất, mô
phạm, và toàn quyền, nhưng lại được dân bầu. Họ phối hợp nguyên tắc trung ương
tập quyền và nguyên tắc nhân dân làm chủ; điều nầy đem lại cho họ một thời gian
trì hoản; họ tự an ủi đang được dạy bảo theo suy nghĩ là họ đã lựa chọn những
người bảo vệ của họ. Mỗi người tự đặt mình vào những sợi dây xích cổ, vì thấy
rằng đó không phải là một người hay một gia cấp mà là toàn thể dân chúng đang
nắm đầu dây xích. Trong hệ thống nầy, người dân chỉ vùng vẫy thoát ra tình
trạng lệ thuộc của họ một thời gian đủ dài để lựa chọn người chủ của họ và sau
đó lại trở về tình trạng cũ một lần nữa. Ngày nay, rất nhiều người hoàn toàn
bằng lòng với loại thỏa thiệp giữa chế độ độc tài và nhân dân làm chủ; và họ
nghĩ rằng tự do cá nhân của họ đã được bảo vệ đầy đủ khi họ phó thác nó cho
quyền hành quốc gia nói chung. Cuối cùng, những gì còn lại chỉ là một nền dân
chủ trống rỗng bị chế độ chuyên chế đục khoét mà ít ai phản kháng. "
Tập đoàn tài phiệt Mỹ được
liên kết chặt chẽ với Chính Phủ mà nó chỉ định và kiểm soát - thực thi quyền
năng và tiếng nói mà họ muốn cùng với những tư tưởng thông qua những đại bài
như
1. The Council on
Foreign Relation (4500
thành viên),
2. The Trilateral
Commission (
87 Americans + 337 từ các quốc gia khác),
3.
The Bilderberg
Club (120-140
"khách") và
4.
Nhiều cơ quan được miễn thuế khác như The Rockefeller
Foundation, trong
đó những đại biểu và quản gia then chốt cùng với những quyền lợi của tập
đoàn tiêu biểu cho những kế hoạch trước mắt và toàn cầu; và nghị trình được bàn
thảo, cải thiện và sau đó được thi hành bởi những đám lưu manh chính trị
nô bộc.
Giới hạn của bài nầy không cho
phép đi sâu vào ba tổ chức vừa để cập ở trên; nhưng chúng ta chỉ cần ghi nhận
rằng sự nghiệp chính trị của nhiều người đã vươn lên như phép lạ sau khi tham
dự buổi hội nghị Bilderberg đầu tiên của họ:
Margaret Thatcher, Bill Clinton, and Tony Blair. Obama đã bổ nhiệm 11 thành
viên của Ủy Ban Trilateral
Commission(nghĩa là hơn 10%) vào những chức vụ hàng đầu và
then chốt trong chính quyền của ông trong mười ngày đầu của nhiệm kỳ của ông.
Năm 1976, người sáng lập của Trilateral
Commission và
David Rockefeller, kẻ dựng ngôi vua của Mỹ, đã đưa một gã vô danh mang tên
Jimmy Carter vào Tòa Bạch Ốc. Giữa 1945 và 1972, khoảng 45% những viên chức
ngoại giao hàng đầu phục vụ trong chính phủ Mỹ cũng là những thành viên của Hội
Đồng Tài Phiệt The
Council on Foreign Relation, khiến một
trong những thành viên hàng đầu có lúc nói rằng việc gia nhập vào Hội Đồng chủ
yếu là một "nghi thức thăng tiến" thành một viên chức của chính sách
ngoại giao...Khoảng 42% những chức vụ ngoại giao hàng đầu trong chính quyền
Truman do các thành viên của Hội Đồng Tài Phiệt nắm giữ; con số đó là 40% trong
chính quyền của Eisenhower, 51% trong chính quyền của Kennedy, và 57% trong
chính quyển của Johnson. Hội Đồng Tài Phiệt đã và tiếp tục có những ảnh
hưởng lớn lao trong thế giới truyền thông, nhờ đó nó có thể quảng bá ý thức hệ
của nó, thăng tiến những nghị trình của nó, và che đậy ảnh hưởng của nó... Cơ
Quan Tình Báo Trung Ương CIA cũng không phải là kẻ xa lạ trong hệ thống nầy, vì
thường xuyên trong những thập niên đầu khi mới hình thành, những giám đốc của
nó đều đến từ Hội Đồng, như Allen Dulles, John A. McCone, Richard Helms,
William Colby, và George H.W. Bush."
Quí vị có thể vào địa chỉ:
để có được một danh sách đầy
đủ hơn về những nhân vật hàng đầu thuộc Hội Đồng liên quan đến bang giao quốc
tế và thuộc Trilateral
Commission trong
thế giới chính trị, kinh doanh, kỹ nghệ, hàn lâm, truyền thông, quân sự, và
CIA...
Do đó, không mấy ngạc nhiên
khi Hillary Clinton, trong một giây phút yếu lòng, đã công khai thú nhận: "Chúng
tôi nhận nhiều khuyến cáo của Hội Đồng, nên điều nầy sẽ có nghĩa là lúc nào tôi
cũngsẽ được bảo nên làm gì và nghĩ gì về tương lai. (We
get a lot of advice from the Council, so this will mean I won't have as far to
go to be told what we should be doing and how we should think about the future.)"
Theo Jim Brown, "tập
đoàn tài phiệt là một hệ thống chủ yếu Anh Mỹ, theo một mức độ nào đó, hoạt
động theo phương cách mà Cánh Hữu Cực Đoan tin là tương tự như hoạt động của
những người Cộng Sản. Thực vậy, hệ thống nầy thường được nhận diện như là
Nhóm Bàn Tròn (Round Table Groups), không ngần ngại hợp tác với Cộng Sản hay
bất kỳ nhóm nào khác, và họ thường xuyên làm thế.
Tôi biết được
những hoạt động của hệ thống nầy vì tôi đã nghiên cứu nó 20 năm nay và vào đầu
thập niên 1960, trong hai năm, tôi được phép xem xét những tài liệu và hồ sơ bí
mật của nó. Tôi không có ác cảm gì đối với nó hay đa số những mục tiêu của nó,
và trong phần lớn của đời tôi, tôi đã tiếp cận với nó và nhiều công cụ của
nó. Cả trong quá khứ lẫn mới đây, tôi đã phản đối một số chính sách của
nó (đặc biệt là quan niệm cho rằng Anh Quốc là một Đại Tây Dương đúng hơn là một
Cường Quốc Âu Châu, phải được liên minh với Hoa Kỳ và phải đứng cô lập với Âu
Châu), nhưng nói chung, theo quan điểm cá nhân của tôi, hệ thống đó muốn không
ai biết đến, và tôi tin rằng vai trò của nó trong lịch sử là khá đáng kể
để mọi người biết đến."
Có thể có hay không có câu trả
lời đích thực cho những câu hỏi sau đây?
-
Chung qui, đâu là cơ quan thực sự hoạch định chính sách và thực thi quyết định
trong hệ thống chính trị Hoa Kỳ? Tòa Bạch Ốc, Điện Capitol, Ngũ Giác
Đài...?
- Qua phổ thông đầu phiếu, người Mỹ có nghĩ rằng
mình đúng khi cho
rằng tổng thống và các nhà đại biểu dân cử đích thực là do lá phiếu của người dân hay không? Theo Tocqueville, không bao giờ có thể tin rằng một chính phủ tự do, khôn ngoan, và nghị lực lại có thể sản sinh từ những lá phiếu của một dân tộc nô lệ.
rằng tổng thống và các nhà đại biểu dân cử đích thực là do lá phiếu của người dân hay không? Theo Tocqueville, không bao giờ có thể tin rằng một chính phủ tự do, khôn ngoan, và nghị lực lại có thể sản sinh từ những lá phiếu của một dân tộc nô lệ.
- Cơ chế chính trị mà người Mỹ đang kinh qua có
đích thực tự do và dân chủ hay không, hay, theo nhận định của Mark Levin, cá
nhân hiện hữu để phục vụ nhà nước, và nhà nước thì hiện hữu để phục vụ mục tiêu
của những tay đầu sỏ?
-
Có thể tin được rằng, trên cơ bản, thế giới chính
trị mà người Mỹ đang sống thực sự khác với cơ chế chính trị cộng sản hay không,
hay chung qui chỉ là một chế độ độc tài mềm? Theo
Tocqueville, chế độ gây nguy hiểm nhất cho xã hội là một chế độ độc tài
mềm. Đó là lối áp đặt từng bước sự chấp nhận chủ nghĩa bình đẳng cực
đoan, được ngụy trang như một chủ nghĩa không tưởng dân chủ và hành chánh. Đó
là niềm tin vào khả năng vô tận của những viên chức được bầu ra có thể bảo vệ
được đời sống và bảo đảm sự điều tiết thích hợp trong một bộ máy chính quyền
nhà nước bao la.
-
Hệ thống chính trị Hoa Kỳ có thực sự là một hệ thống đa đảng hay không?
- Vai trò bá chủ thế giới có thực sự chuyển từ
Đế Quốc Anh sang Hoa Kỳ kể từ thập niên 1950 hay vẫn còn nằm trong tay Đế Quốc
Anh thông qua Tập Đoàn Tài Phiệt? Vận mệnh của Hoa Kỳ có thực sự nằm trong tay
người dân Hoa Kỳ hay không?
-
Phải chăng thế giới hiện nay thực sự không còn đường ranh rõ rệt giữa tự do dân
chủ và độc tài toàn trị, và nhân loại sẽ từng bước bị áp đặt một thể chế toàn
trị từ hai phía?
-
Hành tinh chúng ta cuối cùng sẽ trở thành một Chợ Trời Lớn trong đó con người
sống ăn đong trả nợ, tài sản nay còn mai mất, phục
vụ quyền lợi của đám đầu sỏ trên cao, cả tư bản xanh lẫn tư bản đỏ vô hình vô
dạng;
- Phải chăng núi nợ khổng lồ hiện nay của Hoa Kỳ
vừa là biểu hiện vừa là hậu quả của chính sách nô lệ hóa từ trên cao?
VTK
Cám ơn KG về những bài mới nhiều ẩn ý ly kỳ, hấp dẫn, gây sự tò mò chờ đợi của mọi người !
Trả lờiXóa