(Thế giới) - Chiến tranh có xảy ra ở châu Á hay không phụ thuộc vào thái độ và hành động của Washington chứ không phải Bắc Kinh.
Tạp Chí National Interest của Mỹ gần đây đăng tải bài nhận định khá sâu của tác giả Gordon G. Chang trong đó nhấn mạnh rằng dù một cuộc chiến tranh quy mô lớn có thể xảy ra ở Đông Á hay Biển Đông đi chăng nữa thì Trung Quốc không phải là nước quyết định được điều này bởi Hoa Kỳ mới là nước có khả năng quyết định để chiến tranh nổ ra ở Á châu hay không.
Tác giả Gordon G. Chang cũng đã đưa ra nhiều dẫn chứng, sử liệu trong các cuộc chiến tranh lớn nhất thế giới để chứng minh cho nhận định của mình.
Gordon G. Chang cho rằng đội ngũ lãnh đạo cao cấp ở Bắc Kinh không đủ khả năng quyết định để chiến tranh có thể nổ ra ở khu vực hay không.
Người đưa ra nhận định này cũng chính là tác giả của cuốn sách đang gây sự chú ý có tên “The Coming Collapse of China”.
Gordon G. Chang đặt giả thuyết và trả lời rằng “nếu dư luận đang cố gắng phán đoán mốc thời gian khi tiếng súng đạn chiến tranh đầu tiên xuất hiện ở châu Á thì chắc chắn phải quan sát các động thái của Washington”.
Như nhiều nhà phân tích trước đó đã nhận định, khu vực châu Á từ nay sẽ là một trong những nơi chắc chắn sẽ không bao giờ kết thúc khủng hoảng bởi các nhà lãnh đạo Bắc Kinh tin rằng đất nước Trung Hoa sẽ còn mạnh và to lớn hơn bây giờ rất nhiều.
Chính vì trong tư duy và suy nghĩ của các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã như vậy nên trong tương lai, Trung Quốc sẽ đẩy mạnh các hoạt động bành trướng, mở rộng lãnh thổ về hướng Đông và hướng Nam của châu lục thông qua các chiến thuật sử dụng vũ lực hòng kiểm soát thêm được các vùng biển và vùng trời ở xunh quanh châu Á dù một số nơi đang được thế giới coi như các vùng biển, vùng trời quốc tế nơi được phép đi lại, lưu thông một cách vô hại.
Ông Gordon G. Chang nhận định: “Thật không may, Hoa Kỳ trong một vài cách thức nào đó đã trở thành lý do để Trung Quốc gia tăng các hoạt động thù địch, khiêu khích ở khu vực, Và, hiện nay, sự năng động của các hành động hiếu chiến đã bắt đầu. Chắc chắn Trung Quốc sẽ không dừng lại nếu nước này chưa bị một thế lực khác mạnh hơn chặn lại, buộc Bắc Kinh phải chấm dứt các hành động bành trướng lãnh thổ”.
Theo Gordon G. Chang, sự thù địch và bành trướng của Trung Quốc đã bộc lộ vào mùa Xuân năm 2012 khi tàu Trung Quốc và tàu Philippines xảy ra đối đầu ở khu vực bãi cạn Scarboroug nằm ở phần phía Bắc của khu vực Biển Đông.
Đứng trước sự kiện này, Washington khi đó được xem như đã đóng vai nhà cái, đưa ra những mặc cả để Philippines và Trung Quốc không xảy ra đối đầu quân sự tại Biển Đông.
Bằng việc Hoa Kỳ can thiệp, cả Trung Quốc và Philippines đều đồng ý rút tàu khỏi khu vực tranh chấp. Philippines đã hoan nghênh sự can dự của Mỹ nhưng nhờ sự khôn lỏi và thủ đoạn cộng với năng lực hải quân tốt hơn, Trung Quốc đã kiểm soát được bãi cạn Scarborough.
Trung Quốc đã quyết tâm giành bãi cạn Scarborough bởi nước này tính toán rằng khu vực này chỉ nằm cách đảo Luzon chỉ khoảng 124 hải lý – nơi được xem là có chức năng hộ vệ cho các cảng chiến lược Manila và Subic của Philippines.
Trung Quốc kiểm soạt Scarborough sau đó bởi Hoa Kỳ đã không quyết liệt bảo vệ thỏa thuận trước đó đã được Philippines và Trung Quốc nhất trí và cuối cùng nhà cái Washington đã không đạt được tính toán ban đầu của mình (theo các nhà quan sát, sở dĩ Mỹ buộc phải làm vậy để tránh đối đầu quân sự với Bắc Kinh).
Tuy nhiên, đến nay, cách làm của Hoa Kỳ khi ấy đã để lại hậu quả đó là đã để các nhà lãnh đạo Trung Quốc tin rằng họ có khả năng gia tăng sức ép, dọa nạt và chiếm thêm đảo, đá mà Philippines đang kiểm soát trên Biển Đông, điển hình là khu vực Bãi Cỏ Mây (thuộc chủ quyền của Việt Nam) hiện do Philippines bố trí một con tàu sắt cho lính đồn trú để kiểm soát).
Trường hợp gần tương tự cũng xảy ra đối với quần đảo Senkaku trên khu vực Biển Hoa Đông do Nhật Bản hiện nay đang kiểm soát nhưng tàu thuyền, máy bay Trung Quốc thường xuyên lởn vởn, hoạt động ở khu vực này.
Theo Gordon G. Chang, các nhà hoạch định chính sách, chiến lược của Hoa Kỳ đã nhận được những bài học đắt giá từ những sự kiện như vậy và Mỹ đã, đang và sẽ thay đổi để ngăn chặn Trung Quốc tiến xa hơn.
Chính các nhà sử học quân sự của Mỹ cũng phải thừa nhận rằng việc Hoa Kỳ và đồng minh tiến hành các hoạt động ngăn chặn đã chấm dứt bá mộng ngay từ đầu của Hitler trong giai đoạn Thế chiến thứ II.
Cuối cùng, tác giả Gordon G. Chang cho rằng, chiến tranh có xảy ra ở châu Á hay không phụ thuộc vào thái độ và hành động của Washington chứ không phải Bắc Kinh.
Thành công của học sinh Việt đánh đố giới khoa học Đức
TIẾN SỸ NGUYỄN SỸ PHƯƠNG
(GDVN) - Ngoài tố chất học sinh và thực tế gia đình quyết định thì cần phải có hệ thống giáo dục thích ứng mới có thể xuất hiện “hiện tượng kỳ lạ học sinh Việt” .
LTS: Lâu nay, giới khoa học Cộng hòa Liên bang Đức băn khoăn về tỷ lệ thành công của học sinh Việt Nam đang sinh sống tại Đức.
Mặc dù đã tiến hành khảo sát, nghiên cứu nhưng đến thời điểm hiện tại, họ vẫn chưa tìm ra đâu là lý do chính.
Trong bài viết này Tiến sỹ Nguyễn Sỹ Phương hiện đang sinh sống tại Cộng hòa Liên bang Đức chia sẻ một số lý do làm nên “thương hiệu học sinh Việt Nam”.
Tòa soạn trân trọng giới thiệu cùng độc giả.
Theo số liệu thống kê mới nhất từ Cộng hòa liên bang Đức, năm học 2013 - 2014, có tới 64,4% học sinh Việt theo học trường chuyên Gymnasium (chỉ chiêu sinh những học sinh khá giỏi; sau khi tốt nghiệp sẽ vào thẳng đại học), trong khi chỉ có 47,2% học sinh bản địa học tại ngôi trường này. Con số này gấp 4 lần so với số lượng học sinh Ý, Thổ Nhĩ Kỳ (14%) học tại đây và Việt Nam đứng đầu mọi sắc tộc nhập cư.
Số liệu cách đây 5 năm tính theo từng tiểu bang, có nhiều tiểu bang mà tỷ lệ học sinh Việt lập kỷ lục chưa từng có từ xưa tới nay như bang Brandenburg tỷ lệ học sinh Việt vào trường chuyên lên tới 75%.
Giải học bổng Hertie-Stiftung, trao cho những học sinh nhập cư học trường chuyên từ lớp 7 đạt điểm khá giỏi, và có nhiều đóng góp hoạt động xã hội, mỗi năm toàn nước Đức có chừng 200 em trong danh sách đó có hơn 20 học sinh người Việt, chiếm tỷ lệ 10/100.
Trong khi theo thống kê tới ngày 31/12/2015, tổng số người mang quốc tịch Việt ở Đức chỉ ở mức 87.214 người trong tổng số 9.107.893 triệu người quốc tịch nước ngoài, tức chỉ đạt 10/1000.
Tính ra, tỷ lệ học sinh Việt giành giải gấp 10 lần các sắc tộc khác. Hầu như bất kỳ niên học nào, đều không thiếu tin nóng về gương mặt học sinh Việt đứng đầu các cuộc thi vô địch thành phố, tiểu bang, liên bang, quốc tế.
Sự kiện học sinh Việt luôn đứng đầu nước Đức trở thành “hiện tượng kỳ lạ học sinh Việt” làm giới nghiên cứu Đức nhiều năm nay phải “đau đầu” và loay hoay đi tìm lời giải cho câu hỏi: Tại sao có sự khác biệt thành tích học tập giữa con cái các sắc dân? Dựa trên nguyên lý nào?
(GDVN) - Các chuyên gia thừa nhận, để hội nhập quốc tế về giáo dục thì ngoài nguồn lực mạnh, chất lượng lao động tốt, còn phải có kỹ năng và trình độ tiếng Anh.
Công trình lớn gần đây nhất được trường Đại học Chemnitz thực hiện năm vừa qua, khảo cứu 720 mẫu gia đình Đức, Việt và Thổ Nhĩ Kỳ chọn lựa theo nguyên tắc ngẫu nhiên. Từ kết quả thống kê, họ đi tìm luận chứng nhưng tất cả đều mâu thuẫn với kết quả thu được.
Trước hết, đối chiếu với nguyên lý cổ điển cho rằng nguồn gốc thành công giáo dục bắt nguồn từ mô hình “nền tảng gia đình”.
Theo mô hình này, gia đình thu nhập càng lớn, quan hệ xã hội càng rộng, cha mẹ học thức càng cao, thì con cái học ở trường càng thành công. Nếu luận điểm này đúng, thì lẽ ra học sinh Việt nói chung phải như học sinh Thổ Nhĩ Kỳ. Nhưng thực tế học sinh Việt giỏi hơn gấp 4 lần nếu căn cứ theo tỷ lệ học sinh vào trường chuyên, gấp 10 lần nếu căn cứ vào giải học bổng Hertie-Stiftung.
Sau khi nguyên lý “nền tảng gia đình” không được thực chứng, bị loại trừ, các nhà nghiên cứu lại đi tìm lời giải khác thay thế. Họ đưa ra luận đề có thể do “cách thức giáo dục”. Theo đó, gia đình nghiêm khắc, độc đoán trong giáo dục con cái, đồng nghĩa với thành công.
Nhiều kết quả khảo cứu khác cũng cho thấy giáo dục trong gia đình người Việt nghiêm khắc hơn so với Đức nên con cái họ thành công hơn là tất nhiên.
Nhưng kết quả công trình khảo cứu từng mẫu gia đình đã không xác chứng luận đề trên, không phải cứ gia đình nào càng nghiêm khắc thì con cái họ càng thành công. Mối quan hệ trên không hề mang tính nhân quả mà chỉ hoàn toàn ngẫu nhiên.
Ở bình diện xét chung toàn sắc tộc, luận đề trên còn mâu thuẫn, không ít sắc tộc rất nghiêm khắc, thậm chí cực đoan như các sắc tộc theo đạo hồi, kiểu “đặt đâu ngồi đấy”, nhưng kết quả con cái họ còn thua xa học sinh Việt.
Các nhà nghiên cứu lại đi tìm một cách giải thích khác, dựa trên luận đề Nho giáo, đặc thù người Việt. Theo Nho giáo, giá trị con người nằm ở học thức; học giỏi thì cha mẹ được vinh hiển.
Nhưng luận đề đó cũng bị thực tế bác bỏ. Cả hai nhóm nhập cư Thổ Nhĩ Kỳ và Việt Nam đều đánh giá cao học đường, cho đó là nền tảng để tiến thân, danh phận trong xã hội.
Nhưng học sinh Thổ Nhĩ Kỳ thành công kém xa học sinh Việt. Ngay cả so với học sinh Trung Quốc vốn được sinh ra từ cội nguồn của Nho giáo, cũng cho kết quả tương tự, học sinh Việt vượt xa.
Thay đổi góc nhìn
Đáng tiếc mọi luận đề các nhà nghiên cứu đưa ra đều không giải đáp thỏa đáng bí ẩn thành công học sinh Việt. Rút cuộc họ đưa ra kết luận bỏ ngỏ giả định, có lẽ các công trình mới tập trung nghiên cứu vai trò cha mẹ, ít đề cập tới chính con cái, và mối quan hệ tương hỗ 2 bên.
Thay đổi góc nhìn có thể hy vọng giúp tìm được lời giải thoả đáng, như phản ứng nhanh chóng của cha mẹ người Việt trước kết quả học tập của con cái khác với các sắc tộc khác.
Trong khi cha mẹ người Đức không suy nghĩ gì khi con bị điểm kém 4 (kém nhất là 5), thì một số gia đình Việt đã bắt con học thêm khi mới chỉ được điểm khá 2, chưa đạt được điểm giỏi 1.
Mặt khác, đối với học sinh Việt, học thức còn do đòi hỏi bắt buộc của hoà nhập. Càng có học thức càng dễ giải quyết khi gặp các tình huống bất thuận khác nhau trong cuộc sống luôn có thể xảy bất cứ lúc nào đối với dân nhập cư.
Ngoài ra, bằng cấp là vé vào cửa thị trường lao động mà ở Đức điều này rất quan trọng nên người nhập cư hiểu rõ điều này hơn ai hết.
Về động cơ, họ là những người luôn muốn thăng tiến, kỳ vọng có một cuộc sống tốt đẹp hơn trong nước, nếu không họ đã không rời nước ra đi. Học thức là lá bài duy nhất họ có thể xòe ra.
Tuy nhiên lý do hòa nhập vẫn bị bác bỏ, bởi nó đúng với mọi sắc dân nhập cư nên không thể dùng để lý giải riêng hiện tượng kỳ lạ học sinh Việt được.
Năm 2016 là năm đặc biệt với tôi vì nó đánh dấu 10 năm trở về Việt Nam sau hơn mười mấy năm sống ở nước ngoài và cũng là năm tôi qua tuổi 40, tuổi không còn trẻ nữ Với tôi, Việt Nam của thập kỷ 2006-2015 được khái quát bằng những điểm chính sau:
1) Sự lũng đoạn trầm trọng của các công ty tư nhân trong việc cấu kết với các quan chức nhà nước, cái mà tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng gọi là “lợi ích nhóm”, còn kinh tế học thì gọi là “chủ nghĩa tư bản thân hữu” (cronyism);
2) Về phía khu vực công, sự “đục khoét ngân sách” hay “đào mỏ ngân sách” được đẩy lên đến đỉnh điểm;
3) Thập kỷ này đánh dấu sự khủng hoảng toàn diện của nền giáo dục của nước nhà.
4) Mạng xã hội và truyền thông đã có ảnh hưởng rất lớn đối với đời sống chính trị Việt Nam.
5) Và cuối cùng, làn sóng người có tiền và kiến thức ra đi ào ạt, lại một cuộc di cư nữa.
Vấn đề đầu tiên là sự lũng đoạn trầm trọng của các tập đoàn tư nhân. Chưa bao giờ mà chủ nghĩa tư bản thân hữu “cronyism” ở Việt Nam lại biểu hiện rõ như thế.
Chủ nghĩa tư bản thân hữu hay “nhóm lợi ích” ở đây là sự kết hợp giữa công ty tư nhân và quan chức nhà nước trong việc giành những đặc quyền đặc lợi để khai thác một nguồn lực gì đó trên cơ chế bất bình đẳng, không cạnh tranh lành mạnh.
Câu nói mà bạn sẽ nghe nhiều nhất trong 10 năm vừa qua sẽ là “chỗ này là của anh A, chỗ kia là của chị B”.
Dường như không có cuộc chơi kinh doanh lớn nào ở Việt Nam mà lại không có sự “bảo kê” của một quan chức nào đó. Mọi quan hệ kinh tế sẽ được thay bởi các quan hệ chằng chịt giữa chính trị và doanh nghiệp.
Điểm nguy hiểm nhất của chủ nghĩa tư bản thân hữu là việc nó tạo ra một cuộc chơi bất bình đẳng mà các công ty tư nhân khác không được cơ hội tham gia.
Qua đó các công ty “nhóm lợi ích” được độc quyền khai thác nguồn tài nguyên hay một hoạt động nào đó, và thường là gây thiệt hại cho người dùng.
Trong tài chính, đây là cuộc chơi sử dụng quyền lực để mua lại các doanh nghiệp theo ý của mình. Trong giáo dục, đó là việc trao cho một công ty giáo dục độc quyền cung cấp một dịch vụ, thiết bị mà học sinh, phụ huynh phải mua mà không có sự lựa chọn khác.
Trong xây dựng cơ sở hạ tầng, thì sử dụng quan hệ chính trị để lấy các hợp đồng thầu lớn mà không thông qua đấu thầu công bằng và minh bạch.
Trong bất động sản, đó là việc thay đổi quy hoạch tạo lợi thế cho doanh nghiệp hoặc việc lấy các vị trí đắc địa qua những mối quan hệ bất bình đẳng.
Thay vì phát triển theo một hướng minh bạch có lợi về dài hạn, Việt Nam dường như đang trượt ngã trên con đường phát triển của những nước mà chủ nghĩa tư bản thân hữu đang lũng đoạn mà chưa có lối ra như Philippines, các nước Mỹ Latin, Liên bang Nga, Trung Quốc.
Và rồi sẽ có lúc nếu không kiểm soát sớm thì doanh nghiệp sẽ là người điều khiển cuộc chơi chính trị kinh tế, là kẻ tống người tiêu dùng vào tù, là kẻ bịt mồm nhà báo, v.v , và cuối cùng là thế lực thực sự lũng đoạn nền chính trị, đưa người này lên, đưa kẻ khác xuống.
Khi chính trị bị định đoạt bằng đồng tiền và quan hệ thì chính trị đã trở thành “công cụ” của những tay chơi tư bản lớn.
Và khi đó, nền kinh tế tại Việt Nam sẽ trở thành hiện thân “chủ nghĩa tư bản” thời kỳ “mông muội” và đáng “ghê tởm”nhất chứ không phải là chủ nghĩa xã hội như ước vọng của các lãnh đạo Đảng Cộng sản.
'Đào mỏ ngân sách'
Vấn đề thứ hai, với tôi, là việc “đào mỏ ngân sách” (budget mining) (mượn lời của Tiến sĩ Trần Vinh Dự). Thập kỷ vừa qua tại Việt Nam được đánh dấu bằng việc “vung tay quá trán” của chính quyền địa phương.
Chưa có thời kỳ nào mà Việt Nam lại lắm công trình chùa chiền, công trình kỷ niệm, các dự án khu hành chính ngốn hàng trăm, hàng ngàn tỷ như những năm vừa qua.
Các địa phương thi nhau đục khoét ngân sách thông qua các dự án công. Không có cách nào rút tiền ngân sách dễ dàng như rút tiền qua dự án công.
Một công trình, khu tượng đài có giá trị đầu tư hàng trăm tỷ sẽ được giao cho một công ty xây dựng “thân hữu”. Công ty xây dựng đó sẽ trở thành nhà thầu chính và qua đó có thể chia sẻ lại quyền lợi cho những người có quyết định.
Điểm đáng kinh ngạc và phẫn nộ là trong khi ai cũng biết mười mươi sự lãng phí và sự rút tiền trắng trợn qua những dự án này thì chính quyền trung ương dường như lại không thể áp đặt và quyết đoán ngăn chặn những quyết định này.
Tại sao các địa phương lại có thể xin ngân sách nhà nước một cách tùy tiện như vậy. Sự nghịch lý này hoàn toàn có thể giải thích được.
Chính quyền trung ương sẽ được đánh giá tín nhiệm từ hai nguồn:
a) Các ủy viên trung ương, mà đại diện là lãnh đạo các tỉnh/chính quyền địa phương
b) Đánh giá tín nhiệm từ Quốc hội
Tuy nhiên, ủy viên trung ương mới là người thực sự bầu ra bộ chính trị, thủ tướng, và thực tế nội các. Trong khi đó, lá phiếu tín nhiệm của quốc hội chỉ có ý nghĩa tượng trưng mà không có hình phạt.
Do đó, dường như phải có sự thỏa hiệp giữa chính quyền địa phương và chính quyền trung ương trong việc đổi lấy lá phiểu ủng hộ, đặc biệt là giữa nhiệm kỳ.
Do vậy, để tránh việc đầu tư vung vãi như trên thì cần phải thiết kế một cơ chế quy trách nhiệm cho người lãnh đạo chính quyền địa phương và bảo đảm được tính độc lập trong việc ra quyết định chi ngân sách của người đứng đầu chính quyền trung ương.
Mạng xã hội để xả uất ức?
Từ những năm qua, mạng xã hội và truyền thông đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống kinh tế chính trị ở Việt Nam.
Xã hội Việt Nam 10 năm qua đã không còn là xã hội thụ động về truyền thông nữa. Sự phát triển của mạng xã hội đã cho phép người dân tham gia vào đời sống chính trị kinh tế xã hội một cách chủ động hơn rất nhiều.
Mạng xã hội đã chính thức trở thành nơi để xả những uất ức phẫn nộ và bức bối của dân chúng. Nếu như ở nước ngoài, người dân phản ứng với thay đổi bằng cách biểu tình thì ở Việt Nam, người ta sẽ phản ứng bằng cách “biểu tình trên mạng”.
Mỗi một sự kiện có ảnh hưởng lớn đến đời sống đều được đem ra bàn luận sôi nổi trên mạng xã hội. Ảnh hưởng của mạng xã hội lớn đến mức có rất nhiều vụ việc sau đó bị thay đổi do dư luận trên mạng xã hội đã dẫn dắt truyền thông chính thống, ví dụ như vụ chặt cây xanh, máy tính bảng, tiếng Anh tích hợp, thực phẩm bẩn .v.v.
Quay lại chuyện chính trị và truyền thông, dường như truyền thông và mạng xã hội đã loại thẳng tay các lãnh đạo đương nhiệm của Bộ Giáo dục và Bộ Y tế, trong khi trái tim của công luận dường như “tình trong như đã” với nguyên Bộ trưởng Bộ Giao Thông Đinh La Thăng.
Xét công bằng mà nói thì hai Bộ Y tế và Bộ Giáo dục - Đào tạo có những nỗ lực không hề nhỏ trong 5 năm vừa qua. Tuy nhiên nhìn cách họ ứng xử với truyền thông thì thấy hai bộ này còn phải thay đổi rất nhiều.
Bộ Y tế ứng xử với truyền thông thì hết sức vụng về, luôn đi chậm một bước, tuyên bố rất ngô nghê. Còn Bộ Giáo dục thì luôn có vẻ ngạo mạn, hành xử đầy “cha chú” với truyền thông và công luận với những chính sách và phát ngôn gây sốc như dự án 35 nghìn tỷ, cuộc thi đại học như “đánh bạc”, và chẳng bao giờ có lời giải thích cầu thị đến nơi đến chốn cả.
Trong khi đó, chỉ một hình ảnh ông Đinh La Thăng đu dây xuống thị sát vụ tai nạn cũng đã đủ đốn ngã hàng triệu con tim của người dân, và kế đó là việc ông là người duy nhất được bầu thẳng vào Bộ Chính trị mà không có sự giới thiệu từ Bộ Chính trị trước đó.
'Hộ chiếu một đất nước khác'
Đối với tôi, người từng tham gia rất sâu vào giáo dục và cũng là người có hai đứa con đang độ tuổi đi học cấp 1 và cấp 2 ở Việt Nam, giáo dục là điều tôi quan tâm nhất.
Với tôi, 10 năm qua chứng kiến sự khủng hoảng toàn diện của nền giáo dục Việt Nam. Sang thế kỷ 21 rồi mà giáo trình phổ thông và đại học của Việt Nam vẫn vô cùng lạc hậu hàng chục năm so với nước ngoài.
Hàng trăm vụ scandal liên quan đến nội dung giáo trình phổ thông đã xảy ra. Những gì con tôi được học không khác gì những gì cha tôi và tôi đã từng được học cách đây hơn 30-50 năm.
Người thầy vẫn phải dạy một cách giáo điều, khuôn mẫu, ngăn cản sáng tạo. Vẫn những câu chuyện lịch sử áp đặt hoặc không được nhắc đến. Những cuộc cải cách giáo trình mãi không biết đến bao giờ mới xong (trong khi đó nếu Bộ Giáo dục - Đào tạo trao quyền cho khối tư nhân thì có khi chỉ một năm đã có tất cả giáo trình đầy đủ). Và vẫn những loay hoay không lối thoát về chiến lược giáo dục.
Sắp hội nhập AEC và TPP đến nơi rồi mà hơn 80% học sinh thi tốt nghiệp phổ thông trung học có điểm tiếng Anh dưới 5 điểm trung bình.
Ấy thế mà những nhà quản lý giáo dục vẫn “bình chân như vại”. Giáo dục song ngữ, cụ thể là tiếng Anh, vẫn chưa bao giờ được coi là quan trọng nhất.
Việc dạy Toán và Khoa học, nền tảng giáo dục cơ bản cho một đất nước “sáng tạo” lại luôn được dạy một cách vô cùng lý thuyết và thiếu tính ứng dụng cao.
Cuộc khủng hoảng năm 2008 kéo dài với những bấp bênh bất ổn của nền kinh tế đã dẫn đến một làn sóng ngầm nhưng rất rõ ràng là những ai có điều kiện đều cảm thấy cần phải mua “bảo hiểm” cho gia đình mình bằng tấm hộ chiếu của một đất nước khác.
Nếu như năm 2006 khi tôi trở về, câu chuyện trong giới doanh nghiệp và tài chính là đầu tư vào đâu, thì những năm gần đây, câu chuyện thường trực mà tôi nghe là họ sẽ di cư đi đâu, chuyển tiền ra nước ngoài thế nào.
Tại sau người ta lại bỏ nước ra đi?
Người ta bỏ nước ra đi vì họ thấy quá nhiều bất ổn: kinh tế bấp bênh, ô nhiễm môi trường trầm trọng, thực phẩm độc hại tràn lan, và đặc biệt, là một nền giáo dục quá lạc hậu không thể chuẩn bị cho con cái họ một tương lai trước một thế giới đầy bất định.
Cứ 10 chủ doanh nghiệp mà tôi gặp thì ít nhất 3-4 người đã có thẻ thường trú nhân ở một nước tư bản, số còn lại thì hơn một nửa cũng đang ngấp nghé chuẩn bị.
Sự khác biệt lớn nhất của cuộc di cư lần này so với những cuộc di cư khác là cuộc di cư lần này không hề vì ý thức hệ. Cuộc di cư lần này được những người tinh hoa nhất, thành đạt nhất dẫn đầu, và được chuẩn bị vô cùng bài bản và công khai.
Họ ra đi mang theo số lượng tiền bạc, trí tuệ khổng lồ. Một cuộc chảy máu chất xám và tiền lớn hơn tất cả những cuộc di cư trước cộng lại.
(Còn với tôi, nếu tôi có phải bỏ nước ra đi, thì lý do duy nhất là tôi không muốn con tôi sống với những điều dối trá đang diễn ra.)
Sang năm 2016, tôi thấy hơi lạc quan với những động thái mà Đảng Cộng sản đưa ra. Dường như những nhà lãnh đạo đã cảm thấy một phần sức nóng bức xúc của công luận.
Tham nhũng được coi là quốc nạn, những vụ bổ nhiệm lãnh đạo cao cấp dường như khá tích cực.
Những vụ luân chuyển cán bộ cấp thành ủy đã mang hơi hướng của việc cải cách.
Một điểm tích cực khác là dàn lãnh đạo khá trẻ của Đảng cho dù họ có là con ông cháu cha hay chăng nữa.
Truyền thông và mạng xã hội được coi trọng hơn rất nhiều. Quan chức giờ đã biết nhìn và hành động theo phản ứng của dư luận, cho dù những việc đó có là “giả tạo” thì việc biết để ý đến phản ứng của công luận đã là một bước tiến bộ rất đáng kể.
Tôi mong rằng sang thập kỷ mới, chính phủ Việt Nam sẽ giải quyết được triệt để những vấn đề nêu trên.
Hãy trở thành một chính phủ quyết đoán hơn, dùng được tầng lớp kỹ trị. Các quan chức phải chịu trách nhiệm cá nhân cho các quyết sách của mình. Hãy biến Việt Nam trong những năm tới thành một “Quốc gia Giáo dục – Education Nation” nơi mà việc học tiếng Anh, Toán, Khoa học được coi trọng hàng đầu.
Chính phủ Việt Nam cũng nên cởi mở hơn với những phản biện xã hội. Hãy coi phản biện xã hội là những tấm gương lớn để soi lại mình.
Đừng chụp mũ và áp đặt cho các phản biện xã hội là “diễn biến hòa bình” hay “các thế lực phản động”.
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn tự làm mới mình trong mỗi lần sinh tử. Vậy hãy làm mới mình, hãy chấp nhận thay đổi cho một đất nước tốt đẹp hơn.
Anh bạn thân của tôi, một nhà kinh tế học nổi tiếng Việt Nam đã từng nói đầy cay đắng: Bi kịch và nghịch lý lớn nhất của thể chế chính trị hiện giờ là nó biến những người hiền hòa, những trí thức và doanh nhân an phận có trách nhiệm (như tính cách của dân tộc Việt Nam) thành những người bất đồng.
Chúng tôi yêu tha thiết đất nước này, và một cách nào đó, chúng tôi được hưởng lợi từ chế độ này. Tuy nhiên, mong thể chế này hãy thay đổi tích cực để đừng biến những người yêu nước (như chúng tôi), một ngày nào đó lại phải trở thành những người “bất đồng chính kiến”.
* (Đầu đề mượn lời thơ của Phạm Công Thiện. Bài viết có sử dụng các ý trao đổi của Vũ Thành Tự Anh và Trần Vinh Dự).