Thứ Ba, 29 tháng 7, 2014

Con trai Tổng bí thư Lê Duẩn và ký ức đám cưới ngày 17.2.1979

Hôm nay, 17.2.2014, đúng 35 năm ngày mở đầu cuộc chiến đấu bảo vệ chủ quyền biên giới phía Bắc, cũng là kỷ niệm 35 năm ngày cưới của tôi.

Năm 1979, tôi 24 tuổi, 7 năm quân ngũ và bắt đầu làm việc tại Viện kỹ thuật không quân.
Năm 1979, đất nước vừa ra khỏi cuộc chiến tranh chống Mỹ được bốn năm. Có thể lớp trẻ bây giờ khó mà hình dung nổi bối cảnh đất nước lúc đó nhưng tôi cũng không thể nói gì cho đủ nghĩa hơn bằng ba chữ: Rất khó khăn! Hồi đó, bộ đội như chúng tôi được phát mỗi tháng 21 kg gạo nhưng vẫn đói bởi thiếu chất. Hồi đó, mỗi năm, mỗi người dân khó có nổi một bộ quần áo mới. Hồi đó, mẹ tôi làm ở Ban tuyên giáo An Giang, thỉnh thoảng lại phải “cứu viện” chất đạm cho các con, khi thì gửi ít tôm khô, hoặc các loại mắm Nam Bộ. Những đứa con miền Bắc của bà tập quen ăn mắm từ những ngày thiếu, đói đó.
Đầu năm 1979, khi quyết định sẽ cưới vợ, tôi vào An Giang thăm mẹ. Bà, người phụ nữ nhiều năm xa chồng con, biền biệt chiến trường có vẻ như chưa hề được sống một ngày của thời bình. Bà cho tôi xem những bức ảnh chụp những người dân bị Pol Pot giết hại. Lần đầu tiên, trong đời, tôi nhìn thấy hình ảnh những con người bị giết một cách khủng khiếp và man rợ như thế. Hàng chục, hàng trăm người đều chết cùng một tư thế: Miệng há ra, mắt mở man dại. Mẹ tôi giải thích họ bị đâm bằng những que nhọn từ hậu môn lên đến đỉnh đầu...
Năm 1979, trước ngày 17.2, những người lính chúng tôi đã được phổ biến về những va chạm lớn trên toàn tuyến biên giới phía Bắc.
Nói như thế để nhắc lại rằng, ở thời điểm đó, đất nước chúng ta ở vào thời điểm vô cùng khó khăn. Thiếu, đói... chỉ là yếu tố rất nhỏ trong 2 chữ KHÓ KHĂN đó.
Thế nhưng, cũng sẽ chẳng ai hình dung nổi, khi còn thiếu mặc và đói ăn đó, chúng tôi được giao nhiệm vụ thử nghiệm chế tạo máy bay...
Ngày 16.2, báo động cấp 1 toàn quân được chuyển xuống cấp 3.
Sáng thứ bảy,17.2.1979, Trung Quốc tấn công trên toàn tuyến biên giới.
Tối hôm đó, đám cưới của tôi vẫn diễn ra. Vẫn gần đông đủ những cán bộ cao cấp: Trường Chinh, Tố Hữu, Đại tướng Văn Tiến Dũng... Gọi là đám cưới nhưng thực ra thì cũng là một bữa tiệc nhà có chút rượu, trà thuốc và kẹo. Tôi thoáng thấy sự căng thẳng trên gương mặt của những lãnh đạo đơn vị và quân chủng không quân.
Cha tôi - Tổng bí thư Lê Duẩn - và các lãnh đạo cao cấp vẫn nói chuyện bình thường, không nhắc gì về những gì đang diễn ra ở biên giới. Đặc biệt, nét mặt cha tôi rất bình thản, không hề để lộ (hoặc có thể không có) cảm giác âu lo hay căng thẳng gì. Cũng có thể nhờ thế, chỉ vài chục phút sau khi bắt đầu hôn lễ, không khí căng thẳng trong nhóm sĩ quan quân đội được giải tỏa, trở lại bình thường. Hôm sau, một người bạn binh ngũ nói với tôi: “Hôm qua thấy đám cưới vẫn diễn ra, thấy mọi việc vẫn bình thường, và đặc biệt, nhìn nét mặt của ông già mày, bọn tao tin Trung Quốc chẳng đánh đến Hà Nội được đâu...”.
Chú rể Lê Kiên Thành và cô dâu Nguyễn Thị Tú Khanh
trong đám cưới ngày 17.2.1979 - Ảnh tư liệu gia đình  
Tôi không bao giờ tưởng tượng rằng mình sẽ có một đám cưới như trong nhiều bộ phim mà mình từng xem thời niên thiếu: Sau đám cưới, chú rể trở về ngay đơn vị...
Ngay sau ngày cưới, tôi trở về đơn vị và bắt đầu cuộc sống của người lính thời chiến tranh. Thỉnh thoảng chủ nhật vợ tôi đến thăm chồng; khi ra về mắt đỏ hoe, làm tôi thấy thương cảm vô cùng!
Lúc đó, nghe nói rằng, chúng ta đã chuẩn bị cho một chiến bằng không quân để bảo vệ biên giới.
Những người tham gia thiết kế, chế tạo chiếc máy bay Việt Nam đầu tiên TL-1.
Từ trái qua: Lê Kiên thành, Trần Mạnh Chung, Nguyễn Văn Hải, Bùi Thanh Châu.
Đây là những ngày bay thử trên sân bay Hoà Lạc - Ảnh tư liệu gia đình 
Thế nhưng, điều đặc biệt là những ngày tháng đó, Hà Nội vẫn bình thường. Bình thường trong một cuộc chiến hết sức không bình thường. Khi tiếng súng đã nổ ra ở biên giới nhưng mấy tháng sau thì kết thúc, người Hà Nội điềm tĩnh pha chút tự hào kín đáo nhìn lại: Trung Quốc đã không thể kéo dài cuộc chiến và không thể đánh đến Hà Nội...
Cha tôi còn nói: Nếu theo lẽ bình thường, Trung Quốc không nên đánh Việt Nam...
Nhưng có lẽ người Việt Nam là vậy, một khi điều bất bình thường nhất đã xảy ra, họ bình thản đón nhận.
Và tới năm 1980, chiếc máy bay đầu tiên do người Việt Nam tự thiết kế và chế tạo mang tên TL-1 đã bay trên bầu trời Tổ quốc. Năm 1981, đứa con trai đầu lòng của tôi ra đời, tôi đặt tên là Lê Kiên Dũng.
Và cũng là bình thường khi kỷ niệm 35 năm ngày cưới, tôi không thể quên, ngày cưới của mình trùng với ngày nổ ra chiến tranh biên giới. Tất nhiên không nên ôm chặt những chuyện không vui của quá khứ nhưng hãy hiểu quá khứ để nhìn về tương lai một cách chuẩn xác hơn!

Tài liệu Trung Quốc về Hải chiến Hoàng Sa: Lần đầu hé lộ về vũ khí

(TNO) Trong trận Hải chiến Hoàng Sa năm 1974, phía Trung Quốc chỉ có trong tay loại tàu săn ngầm lớp 6604 cũ kỹ. 

Tài liệu Trung Quốc về Hải chiến Hoàng Sa: Lần đầu hé lộ về vũ khí
Hình vẽ minh họa tàu săn ngầm lớp 6604 của hải quân Trung Quốc trong trận hải chiến Hoàng Sa - Ảnh: ifeng.com
Tàu săn ngầm lớp 6604
Ngày 11.12.2007, đài Phượng Hoàng (news.ifeng.com) đã tiết lộ về các loại vũ khí mà Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) sử dụng trong Hải chiến Hoàng Sa năm 1974.
Theo đó, có 4 tàu săn ngầm màu xám lớp 6604 do Trung Quốc sản xuất, với thiết kế “nhái y chang” theo mẫu tàu săn ngầm lớp Kronshtadt do Liên Xô sản xuất từ sau Thế chiến II. Tức là tàu cũng có độ dài 49,5 m, rộng 6,2 m, độ choán nước 320 tấn, tốc độ lớn nhất là 18 hải lý/giờ, thủy thủ đoàn 60 người (gồm 4 sĩ quan cao cấp, 56 lính). Tuy nhiên, qua thời gian sử dụng, tới năm 1974, tốc độ nhanh nhất của loại tàu này chỉ lên tới 12 hải lý/giờ.
Được biết, từ tháng 2.1954, Trung Quốc đã ký với Liên Xô một bản giao ước về việc chuyển giao công nghệ đóng tàu chiến của Liên Xô, và phía Liên Xô đã cử hơn 30 chuyên gia tới Trung Quốc để chỉ đạo, hướng dẫn cụ thể. Từ tháng 12.1954, Liên Xô đã vận chuyển nhiều thiết bị, phần thân của loại tàu săn ngầm này qua đường Mãn Châu vào Trung Quốc và vận chuyển tới Thượng Hải bằng đường sắt. Việc đóng tàu chính thức bắt đầu từ tháng 1.1955 tại xưởng đóng tàu ở Thượng Hải và Đại Liên, tới tháng 4.1955, tàu chính thức được hạ thủy. Từ năm 1954 - 1957, Trung Quốc sản xuất được 14 loại tàu săn ngầm này, trong đó 6 chiếc được phục vụ cho đại đội 73 ở căn cứ Ngọc Lâm tại Hải Nam.
Tàu lớp 6604 có khá nhiều phiên bản: tàu săn ngầm, tàu hộ vệ, tàu tuần tra…, theo tư liệu báo chí phương Tây. Tới nay, các loại tàu này đều đã “về hưu” do tuổi đời quá cao và thiết bị đã cũ kỹ, lạc hậu.
"Lết" vào cuộc chiến
Theo báo chí Trung Quốc, từ năm 1972, Tổng thống Mỹ Richard Nixon do muốn giành thắng lợi ở cuộc bầu cử, đã quyết định rút hết quân khỏi miền Nam Việt Nam. Trước khi rút, Nixon đã ra lệnh để lại thiết bị quân sự tối tân cho Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu, coi như chút trách nhiệm cuối cùng dành cho đồng minh thân thiết. Lúc đó hải quân miền Nam Việt Nam được trang bị hơn 10 tàu chiến tối tân của Mỹ với các trang thiết bị vượt xa hạm đội Nam Hải của Trung Quốc. Vì vậy ông Thiệu đã không hề sợ hãi Trung Quốc.
Báo chí đại lục cho rằng từ tháng 8.1973, chính quyền miền Nam Việt Nam đã cử nhiều binh lính tới đóng tại nhiều đảo và rạn san hô của quần đảo Trường Sa. Còn tại quần đảo Hoàng Sa, Việt Nam Cộng Hòa đóng quân trên hòn đảo có cùng tên gọi (Hoàng Sa).
Mao Trạch Đông sớm phán đoán tình hình trên, nên đầu năm 1972, đã hạ lệnh triệu tập 3 bộ (gồm: Bộ Quốc Phòng, Bộ Ngoại giao, Bộ Giao thông) và 4 bên (gồm quân khu Quảng Châu, Hải quân, Cục thông tin Bộ Ngoại giao, Cục Thủy sản Bộ giao thông) cùng nhóm họp để giải quyết vấn đề mà phía Trung Quốc gọi là “phòng bị cho Hoàng Sa”. Tất cả các bộ ngành trên đều có mối liên quan mật thiết tới vấn đề Hoàng Sa.
Mao Trạch Đông đã yêu cầu “phòng ngự Hoàng Sa phải đạt tiêu chuẩn cao, theo kiểu một pháo đài bất khả xâm phạm mình đồng da sắt”. Một quyết định quan trọng trong cuộc họp được đưa ra là việc xây dựng trên đảo Phú Lâm (phía Trung Quốc gọi là đảo Vĩnh Hưng) thuộc Hoàng Sa của Việt Nam cơ sở hạ tầng để có thể đón tàu hàng ngàn tấn và máy bay phản lực, đồng thời huy động 74 đại đội tàu săn ngầm, tàu đổ bộ tới đóng ở đây, để đảo Phú Lâm được xây dựng thành một cứ điểm quan trọng trong quần đảo Hoàng Sa.
Trung Quốc cũng phái nhiều ngư dân, dân binh đánh đuổi đội lính Việt Nam ở đảo Hoàng Sa. Tuy nhiên, tới đầu năm 1974, sự việc này vẫn chưa giải quyết xong toàn bộ. Việc điều động 74 đại đội và tấn công Hoàng Sa vẫn chưa có kết quả. Trong khi đó, tàu chiến của Trung Quốc ngày một già cỗi, cũ kỹ.
Công tác tình báo hải quân cũng bị tác động không nhỏ. Căn cứ hải quân Ngọc Lâm vốn đặt một trạm tình báo chịu trách nhiệm thu thập, phân tích thông tin tình báo của hải quân miền Nam Việt Nam. Nhưng trạm này đã ngưng hoạt động trong khoảng năm 1970, khiến hải quân Trung Quốc không tài nào nắm bắt được kịp thời hướng hành động của hải quân miền Nam Việt Nam. Công tác chuẩn bị tiền kỳ cho chiến trận của hạm đội tại biển Đông cũng vì vậy bị ảnh hưởng nghiêm trọng và bị động. Căn cứ hải quân Ngọc Lâm phải dựa vào lời tường thuật của các ngư dân để tìm hiểu tình hình Hoàng Sa.
Mãi tới ngày 14.1.1974, căn cứ Ngọc Lâm mới lần đầu tiên thu thập được thông tin về tình hình Hoàng Sa thông qua kênh chính thống. Cũng ngày đó, hạm đội Nam Hải nhận được tin báo rằng tàu chiến của quân đội miền Nam Việt Nam đang hoạt động về phía đông ở vịnh Cam Ranh và thành phố Đà Nẵng, có khả năng sẽ tới Hoàng Sa, nên lệnh cho căn cứ Ngọc Lâm tổ chức một chuyến tuần tra Hoàng Sa, cùng các tàu đánh cá đối phó với quân đội miền Nam Việt Nam.
Lúc này, lãnh đạo của căn cứ hải quân Ngọc Lâm và các cấp đang ở Trạm Giang để tham gia hội nghị tập huấn quân sự thường niên của Hạm đội Nam Hải. Chỉ có phó tư lệnh căn cứ Ngọc Lâm là Ngụy Minh Sâm và Hồ Sinh Huy đều ở lại căn cứ. Độ nhạy bén nghề nghiệp đã khiến hai người sớm đánh hơi thấy mùi chiến tranh tiềm ẩn. Vì vậy công tác chuẩn bị đã được triển khai, hai người sớm phân chia trách nhiệm, họ Ngụy sẽ ra biển chỉ huy, họ Hồ sẽ ở nhà giữ căn cứ.
Năm 1974, lực lượng của hạm đội Nam Hải còn rất mỏng tới mức có thể coi là nghèo nàn. Căn cứ hải quân Ngọc Lâm và cũng là toàn đội tàu chỉ có 4 tàu hộ tống có sức chiến đấu nhất. Con tàu Nam Ninh đã bị hư hỏng nặng đang phải sửa chữa tại Quảng Châu. Ba tàu hộ tống loại mới khác (mang số hiệu 214, 231, 232) có pháo 65 ly, do gặp sự cố hỏng hóc tại các bộ phận như bếp, đài phát thanh, thiết bị truyền tin… cũng đã định ngày chuẩn bị quay về xưởng sửa chữa. Các tàu chiến còn lại, tàu phóng ngư lôi trọng tải nhỏ, phạm vi trên biển rất hạn chế, khó có thể tác chiến ngoài khơi xa. Như vậy họ Ngụy chỉ còn trong tay 6 tàu săn ngầm lớp 6604, mà lúc bấy giờ đang chuẩn bị “về hưu” và được thay bởi tàu săn ngầm mới lớp 037. Các tàu 6604 vốn chỉ được giữ lại để luyện tập.
Thế rồi vào thời khắc đó, cuộc đời chúng bị đổi ngoặt. Hải quân Trung Quốc đã lựa ra 2 chiếc tàu săn ngầm có tình trạng tốt nhất, dồn hết thiết bị còn tốt lại rồi ráp vào hai tàu mang số hiệu 271 và 274 để tới tham gia trận đánh tại Hoàng Sa.
Ngọc Bi

Thứ Hai, 28 tháng 7, 2014

TRUNG QUỐC ĐẦU ĐỘC CẢ THẾ GIỚI VỚI NHỮNG SẢN PHẨM ĐỘC HẠI




clip_image004

Để trả lời câu hỏi: “Nhưng chết dưới tay Trung Cộng như thế nào?” Tiến sĩ Peter Navarro nói: “Nhiều cách lắm, bằng hàng hóa độc hại, bằng cạnh tranh bất chánh, bằng cách cướp công ăn việc làm của nhiều quốc gia, bằng các hoạt động gián điệp, chiếm tài nguyên thiên nhiên của các nước láng giềng, chiếm lãnh nhiều thuộc địa bằng mặt trận kinh tế, đánh cắp bí mật quốc phòng và tăng đầu tư vào quân đội, toàn là những thủ đoạn hiểm độc” .

Câu hỏi khác: “Có biện pháp nào để tránh hiểm họa “Chết dưới tay Trung Cộng không?” Tiến sĩ Peter Navarro đáp: “Có chứ ! Nhưng, nó đòi hỏi Hoa Kỳ phải có một chánh sách khác và người dân Hoa Kỳ phải hiểu rõ thảm họa lớn nhất thế giới này!”.

 Nhưng Hoa Kỳ vẫn muốn buôn bán với Trung  Hoa!!
Trong cuốn “Death By China” (Chết dưới tay Trung Quốc) có đưa ra một số thống kê tiêu biểu:
- Trung Cộng hiện cung cấp cho Hoa Kỳ 60% nước táo đặc, 50% tỏi, 70% thuốc trụ sinh Penicillin, 50% aspirin, 33% thuốc, Tylenol và 99% vitamin C.
- Vật liệu xây dựng “drywall” của Trung Cộng chứa chất Sulfurous gas bốc mùi trứng thối làm cho người cư ngụ bị sưng phổi, ngứa cổ, nghẹt thở và còn làm hư hỏng các ống nước làm hệ thống HVAC như máy lạnh, máy sưởi không làm việc được. Mỗi năm, hàng 100.000 căn nhà của dân Mỹ phải tốn tiền sửa chửa khoảng 15 tỉ USD.

- Về mặt gián điệp, “Death by China” cảnh báo rằng: mỗi năm có khoảng 750.000 người Hoa trong ngành tình báo vào Hoa Kỳ, đánh cắp kỹ thuật quốc phòng đưa về Hoa Lục.

Vũ khí sinh học dưới hình thức hàng độc:
Rõ ràng Trung Cộng đã và đang dùng “vũ khí sinh học” dưới hình thức “hàng độc” để đầu độc nhân loại và dân chúng Hoa Kỳ, đó là loại vũ khí hủy diệt con người một cách tiệm tiến. Hiện nay, nghành công nghệ sinh học đang nở rộ tại Trung Hoa Lục Địa và phát triển nhanh chóng, các sản phẩm độc hại được xuất khẩu ồ ạt, tràn ngập trên khắp thế giới. Xin liệt kê vài hàng độc đã được tìm thấy:

Thuốc Tây giả:
- Tại PANAMA: hơn 300 người tử vong vì uống thuốc ho Made in China có độc chất gây bệnh là “”, một loại độc chất cao thường tìm thấy trong nước chống đông đặc của xe hơi.
clip_image005
- Tại HAITI: trên 76 trẻ em, phần lớn dưới 5 tuổi chết vì thận bị hủy hoại một cách kỳ lạ giống như nạn nhân ở Panama. Nhờ sự giúp đỡ của Hoa Kỳ, người ta khám phá ra nạn nhân tử vong vì thuốc trị sốt cho trẻ em có độc chất “Diethylene Glycol” phát xuất từ Xingang ( Tân Cương) và qua Công ty giao dịch Sinochem International.

- Không chỉ trong dược phẩm có chất Diethylene Glycol, độc chất này còn được Tàu đưa vào kem, giả mạo dưới nhãn hiệu Colgate. Chính quyền Canada khuyến cáo dân chúng ngưng sử dụng kem đánh răng giả mạo độc hại Made in China.

Dưới chủ đề “Truy lùng thuốc của tử thần” phóng viên của tạp chí Le Nouvel Observateur, kể lại cuộc điều tra của một nhân viên bào chế dược phẩm Thụy Sĩ hầu tóm cổ những kẻ sát nhân đã giết hại hàng ngàn bệnh nhân bằng thuốc giả đến từ Trung Cộng. Cuộc săn lùng chỉ trên địa bàn các quốc gia Cận Đông: Ai Cập, Jordanie, Syrie.
Mở đầu bài viết, phóng viên Jean Paul Mari kể lại câu chuyện của Adel, một người Palestine: Vợ của anh bị ung thư vú, nhờ biết bệnh rất sớm và các bác sỹ lạc quan sẽ chữa được bệnh. Vấn đề thuốc “Imanitib” rất đắt, giá 2000 USD hộp. Để chữa trị cho vợ, Adel đã huy động gia đình bạn bè giúp đỡ đưa vợ sang Israel điều trị, Thời gian đầu, bệnh của vợ anh có vẻ ổn định. Sau đó, anh đưa vợ trở lại Palestine vào bệnh viện tối tân ở Ramallah. Bác sỹ Baker sử dụng loại thuốc nói trên, nhưng giá thành chỉ có một nửa thôi. Vợ của Adel chết 6 tháng sau đó vì thuốc sử dụng tại đây là thuốc giả được pha chế chỉ có nước, pha một ít đường, phẩm màu và một ít aspirine. Giá thành của mỗi họp thuốc nầy là 2 USD.

Điều này đã thúc giục Jean Luc mở cuộc điều tra. Nhân vật trung tâm mạng lưới mà Jean Luc tìm ra được tên Wajee Abu Odeh, một người Jordanie, đến từ Thẩm Quyến ở Hoa Lục. Tại vùng Cận Đông, mạng lưới do Wajee Abu Odeh điều khiển, cung cấp thuốc giả cho Jordanie, Ai Cập, Syrie… họ cung cấp thuốc giả tới 50% thuốc chữa trị ung thư. Không kể các loại thuốc giả chết người này tràn lan ở những vùng ngoại ô nghèo và qua nhiều môi giới nó hiện diện tại những bệnh viện có uy tín ở thủ đô.

clip_image006

Trà Tàu tẩm chất độc chì:
Theo The New Chenese Take Out – Michael E. Telzrow cho biết: Kỹ nghệ sấy khô lá trà tại Trung Cộng đã đạt tới trình độ tinh vi chưa từng có: Các hãng sản xuất trà dùng khí thải từ xe ô tô để làm khô lá trà nhanh chóng bằng cách trải lá trà tươi trên sàn của nhà kho, rồi lái những xe vận tải vào trong, nổ máy để khí thải từ ống khói xe làm khô lá trà. Vấn đề là xăng pha chì và những chất chì độc hại thoát ra theo khói xe bám trên lá trà. Chất độc chì sẽ ngấm dần dẫn đến việc hủy hoại thận và còn nhiều nguy cơ khác.

clip_image007

Nước tương làm bằng tóc:
Bài viết này của GS, Tse – Yan Lee, B.H.Sci nhằm trình bày cho độc giả biết về một loại nước tương được sản xuất tại Hoa Lục không an toàn và được bày bán khắp nơi tại Hoa Lục và trên thế giới.
Nước tương được chế biến từ đậu nành, gồm có hợp chất protein, carbohydrate không chất béo, dồi dào chất riboflavin (B2) và các chất khoáng như sodium, calcium, phosphorus, sắt, selenium và chất kẽm. Hàng năm, trên khắp thế giới người ta đã sản xuất ra hàng ngàn triệu tấn nước tương để cung ứng cho thị trường tiêu thụ.

clip_image008

Vào năm 2003, tại Trung Cộng người ta sản xuất hàng loạt nước tương mang nhãn hiệu “Hongshuai Soy Sauce”, áp dụng theo phương pháp sinh hóa và kỹ thuật tân tiến bởi một nhà máy chế biến thực phẩm gia vị không theo phương pháp chế biến cổ điển bằng đậu nành và lúa mì nên giá thành rất rẻ và được các nhà hàng và nhà trường sử dụng rất nhiều.
Tháng Giêng năm 2004, viên quản lý cho một nhóm ký giả của chương trình TV “Weekly Quality Report” biết thành phần của nước tương gồm có “amino acid”, “sodium hydroxide”, “hydrochloric acid” và mật đường (loại dung dịch phế thải sau khi đã quay ly tâm thành đường cát trắng) và vài chất hóa học khác hòa tan với nước. Nhu cầu chế biến nước tương, hàng tháng nhà máy phải sử dụng đến hàng chục ngàn tấn “amino acid” dưới dạng bột từ một nhà máy sản xuất hóa chất khác.
Sau đó các ký giả đã tìm ra nguyên liệu để bào chế ra loại xi-rô amino acid này tại một nhà máy sinh hóa ở tỉnh Hồ Bắc. Họ trả lời các ký giả rằng “amino acid” chủ yếu chế biến từ tóc con người, thu nhặt được từ các tiệm hớt, uốn tóc và từ các đống rác thải ra ở các bệnh viện khắp nơi trong nước rất dơ bẩn và mang nhiều loại vi khuẩn gây nhiều mầm bệnh khác nhau. Tóc con người chứa nhiều loại hóa chất độc hại như thạch tín “arsenic” và chì “lead” sẽ gây phương hại trầm trọng đến hệ thống tiêu hóa, gan, thận, tim mạch, hệ thần kinh và sinh dục.
Sau khi tin tức ghê tởm này được phổ biến trên toàn thế giới, Hiệp hội Các Quốc gia Châu Âu, Hong Kong, Đài Loan, Nhật, Hoa Kỳ…đã từ chối nhập cảng một số hiệu nước tương và nhiều loại thực phẩm khác sản xuất từ Trung Hoa lục địa vì lý do an toàn cho sức khỏe dân chúng.

clip_image009

Tỏi bột, ớt bột nhiễm phóng xạ:
Do khả năng công nghệ bảo quản thực phẩm quá kém nên tỏi bột và ớt bột là sản phẩm nổi tiếng của quận Qixian (杞县), tỉnh Henan (河南) do cơ xưởng Limin (李利敏) sản xuất phải sử dụng chất phóng xạ Cobalt-60 để giữ lâu cho tỏi bột và ớt bột khỏi bị hư hỏng. Ngày 7/6/ 2009, chất Cobalt-60 bị rò rỉ thấm qua quần áo bảo hộ của công nhân và chất phóng xạ Cobalt-60 tuôn ra ngoài không khí, xưởng Limin bị phát hỏa, gây chết chóc cho nhiều người. Có khoảng 800.000 người trong vòng bán kính 50 km đã bỏ của chạy lấy thân. Hàng quán tại Qixian đóng cửa, đường sá vắng tanh như một thành phố chết.
Tin của TS Tô Văn Trường gửi trực tiếp cho BVN
***

Chết bởi con rồng đỏ Trung Cộng 

Peter W. Navarro & Greg W. Autry
Nguyễn Vinh dịch
clip_image010

Chết bởi con rồng Đế quốc:
Trong một cuộc di dân vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại, Tàu đang biến cải toàn thể Phi châu thành một thuộc địa mới. Tương tự như Tây phương đã làm trong thế kỷ XVIII và XIX  nhưng quyết liệt và với tầm cỡ lớn hơn nhiều  các lãnh đạo Tàu muốn Phi châu là “chư hầu” ở xa, để vừa giải quyết vấn nạn dân số quá đông, và vừa lấy được tài nguyên. – Daily Mail Online.
Trong khi các  hãng xưởng của Mỹ tiếp tục đóng bụi, trong khi các chính khách Mỹ và các nhà lãnh đạo quân sự chỉ chăm chú vào Trung Đông, và trong khi các chính trị gia ở Washington mê ngủ, Tàu cứ tiến tới. Một triệu quân Tàu di chuyển không ngừng ngang dọc Phi châu và Nam Mỹ để chiếm các nguyên liệu chiến lược, và chiếm các thị trường mới nổi, không cho Mỹ, Âu châu, Nhật, và các xứ khác vào. Đây là một cái đinh nữa đóng vào nắp quan tài của ngành sản xuất của Mỹ và của thế giới. Thế giới cần phải coi chừng cái đế quốc đang vươn lên này.
Con rồng Đế quốc Tàu là đứa con hoang của Con rồng sản xuất vô độ – tiêu thụ nửa số lượng xi măng và gần nửa số thép của thế giới, một phần ba đồng của Tàu, một phần tư aluminum, và những số lượng vĩ đại các thứ khác như antimony, chromium, cobalt, lithium, zinc, và gỗ. Chính những tài nguyên này và các thứ khác từ nhiều nơi trên thế giới góp phần cho sự tăng trưởng kinh tế và mức sống của mọi quốc gia.
Bauxite và sắt từ những nước như Guinea và Tanzania được dùng để chế biến thành aluminum và thép mà chúng ta cần để sản xuất máy bay ở Seattle, Wahington và để đóng tàu ở Bath, Maine. Đồng từ Chile để làm dây điện, cobalt từ Congo dùng trong các xưởng cơ khí ở Michigan, và niobium từ Brazil dùng trong nhiều thứ từ máy hỏa tiễn cho quốc phòng đến lò điện nguyên tử dân sự.
Lithium từ Bolivia và Nambia dùng trong bình điện xe hơi lai (hybrid), manganese từ Gabon dùng để sản xuất bình nước uống bằng nhựa, và titanium từ những nơi như Mozambique, Madagascar, và Paraguay để sản xuất thép tốt dùng trong việc chế tạo máy bay tuyệt vời Boeing 787 Dreamliner hoặc đầu gối và hông nhân tạo của Johnson & Johnson.
Nhưng Tàu muốn tất cả những tài nguyên thiên nhiên ở tất cả các nước này là của Tàu, dành riêng cho ngành sản xuất của Tàu và để tạo việc làm trong nước Tàu. Nếu chúng ta thụ động đứng nhìn để Tàu tự tung tự tác, thì chúng nên tự đào hố chôn nền kinh tế của chúng ta bằng cái xẻng mạ vàng làm ở Thượng Hải. Nhưng nếu muốn trực diện đế quốc đang lên này để bảo vệ nền kinh tế và an ninh quốc gia, chúng ta cần hiểu rõ trò “nhử mồi” của Bắc Kinh.

Trò nhử mồi của Đế quốc Rồng
Dân của lục địa đẹp mê hồn này cần sự tiến bộ. Nhưng Tàu đến đây không phải để giúp, mà là để cướp – Daily Mail Online
Kế hoạch nhử mồi của Tàu luôn luôn bắt đầu bằng cùng một cách: Chủ tịch nước, hoặc Thủ tướng, hoặc Bộ trưởng Thương mại đến thủ đô của một xứ xa xôi như Djibouti hay Niger hay Somalia, mà nhiều người Mỹ chẳng biết mấy chỗ này ở đâu trên bản đồ thế giới. Ông ta giơ cao vẫy vẫy một tấm chi phiếu to và hứa hẹn cho vay rộng rãi với lãi suất thấp để xây dựng hạ tầng cơ sở như đường sá, cầu cống, hải cảng, xa lộ; hoặc phí phạm như dinh Tổng thống tráng lệ, hoặc AK47 để các lãnh tụ độc tài chà đạp người dân.
Đổi lại, thuộc địa mới chỉ cần chấp nhận hai điều kiện.
Đầu tiên, muốn nhận tiền thì phải giao nộp các tài nguyên thiên nhiên – như vậy Tàu có thể chiếm trọn cho riêng mình tài nguyên thiên nhiên của thuộc địa.
Thứ nhì, phải mở cửa cho hàng đã là thành phẩm từ các xưởng sản xuất của Tàu tràn vào thị trường thuộc địa – như vậy Tàu chiếm luôn thị trường mới nổi này.
Phương pháp để có tài nguyên của Tàu khác rất xa phương pháp của hầu hết các quốc gia khác trên thế giới, trong đó mọi người dựa vào thị trường toàn cầu để điều phối năng lượng và nguyên vật liêu qua hệ thống giá cả. Phương pháp phân phối tài nguyên bằng thị trường tự do là cốt lõi của nền kinh tế thế giới để mọi người cùng có lợi. Nhưng thay vì hợp tác kiểu tư bản, đế quốc tư bản Bắc Kinh lại chỉ muốn làm đế quốc.
Cái kiểu nhử mồi của con Rồng đang được áp dụng ở Phi Châu, Nam Mỹ, và phần lớn Trung Á, là định nghĩa chính xác cho chủ nghĩa đế quốc: Cướp tài nguyên thiên nhiên của thuộc địa mà những tài nguyên này là tài sản duy nhất của thuộc địa. Mang những tài nguyên này về Tàu thay vì sử dụng tại chỗ để giúp phát triển thuộc địa. Rồi sau đó chuyển ngược những tài nguyên này lại thuộc địa dưới dạng hàng thành phẩm.
Phương pháp này tạo việc làm nơi đế quốc, giúp các công ty đế quốc kiếm tiền, và dĩ nhiên khiến số người thất nghiệp ở thuộc địa càng nhiều thêm.
Phần thuộc địa được hưởng là những việc khai thác nguy hiểm lương thấp, trong khi các việc sản xuất được đưa về Quảng Châu hay Thành Đô (Chengdu) hay Thượng Hải. Tốt Tàu hưởng, xấu thuộc địa chịu.

Ngoại giao bằng tiền kiểu Tàu
Khi quan sát thực tế tại chỗ, chúng tôi tưởng như Tàu đã chiếm Phi châu – Ngoại trưởng Musa Kusa của Libya.
Thực ra trò nhử mồi của Tàu đang xảy ra khắp nơi trên địa cầu.
Angola đã trả nợ cho Tàu số lượng dầu trị giá 10 tỉ đô la và vẫn còn tiếp tục.
Cộng hòa dân chủ Congo đến nay đã trả cho Tàu số lượng tài nguyên tương đương nhiều tỉ đô la.
Ghana đang trả bằng hạt ca cao, Nigeria trả bằng khí đốt, và Sudan lấy vũ khí và trả Tàu bằng dầu. Không một nước nào có lợi trong cuộc trao đổi với Tàu.
Trong khi đó ở Peru, Tàu đang làm chủ cả một ngọn núi đồng; và để mua núi Toromacho của Peru, Tàu đã học từ một câu nói nổi tiếng của W. C. Field, “Không bao giờ cho kẻ khờ một cơ hội”. Thực tế là Tàu đã mua được kho đồng quý giá này chỉ với 3 tỉ đô la, kể cả tiền hối lộ, và giờ đang lời tới mức 2,000 %. Trong khi đó các vấn nạn đói khát, mù chữ, nghèo khó, tai nạn lao động, và môi trường ô nhiễm thì dân Peru lãnh đủ.
Trường hợp Peru đã tệ, việc Bắc Kinh trao đổi với lãnh tụ giết người Robert Mugabe của xứ Zimbabwe còn tệ hơn. Bạo chúa già nua run rẩy này đang cai trị một trong các xứ nhiều tài nguyên thiên nhiên nhất và cũng có ít việc làm nhất của thế giới, đã bán số lượng dự trữ platinum của Zimbabwe trị giá 40 tỉ đô la cho Tàu với giá chỉ 5 tỉ, rồi hắn dùng tiền này để xây lâu đài mới, sắm trực thăng vũ trang, chiến đấu cơ phản lực, và súng ống để đè đầu cưỡi cổ dân Zimbabwe.
Chỉ có Tàu mới có khả năng làm vụ kỳ thị và đàn áp người da đen (Apartheid) trước kia trở nên chuyện nhỏ khi so sánh với tình trạng hiện nay.

“Rồi sao?” Có thể bạn hỏi vậy. Tàu cũng phải được hưởng tài nguyên như Mỹ hay Âu châu hay Nhật chứ! Và tại sao người Mỹ cần phải để ý khi Tàu bóc lột mấy xứ Phi châu tham nhũng thối nát, hoặc mấy xứ nghèo mạt ở Nam Mỹ? Nếu lãnh đạo của mấy cái xứ tồi tệ này ngu quá hay tham quá để Tàu lừa gạt, thì kệ họ chứ! Làm sao mà chuyện này ảnh hưởng được đến mấy người làm cho các hãng cơ khí sản xuất đồ bằng graphite ở Bensenville, Illinois, kính màu cho Nhà thờ ở Kokomo, Indiana, hoặc bàn ghế gỗ ở Asheboro, North Carolina? Và làm sao trò nhử tiền của Tàu lại ảnh hưởng được đến hy vọng tìm việc của những người trẻ tốt nghiệp đại học UC Berkeley với bằng hóa học, hoặc tốt nghiệp Georgia Tech với bằng Kỹ sư?… Rồi, ít ra sau đây là một câu trả lời.
Bằng cách thiết lập các thuộc địa ở Phi châu, Á châu, và sân sau của Hoa Kỳ là Nam Mỹ, Tàu càng ngày thâu tóm càng nhiều tài nguyên của thế giới. Kế hoạch này cho Tàu ở vị thế độc quyền về tài nguyên với giá thấp nhất – và như vậy Tàu có lợi thế cạnh tranh với Mỹ và với cả thế giới.
Thực ra kế hoạch thâu tóm tài nguyên thế giới của Tàu cũng tương đương với việc cấm vận tài nguyên đối với các quốc gia khác trên thế giới. Vì khi Tàu kiểm soát bauxite ở Brazil, Equatorial Guinea, và Malawi; đồng ở Congo, Kazakhstan, và Nambia; sắt ở Liberia và omalia; manganese ở Burkina Fasco, Cam Bốt, và Gabon; chì ở Cuba và Tanzania; zinc ở Algeria, Kennya, Nigeria, và Zambia, thì đâu còn gì cho các xưởng ở Cincinnati và Memphis và Pittsburgh – và Munich và Yokohama và Seoul.
Chuyện Tàu “cấm vận” khiến xe hơi tương lai sẽ được sản xuất ở Lan Châu (Lanzhou) và Vu Hồ (Wuhu) thay vì ở Detroit và Huntsville; máy bay tương lai sẽ được sản xuất ở Tân Châu (Binzhou) và Thẩm Dương (Shenyang) thay vì ở Seattle và Wichita; chíp máy vi tính tương lai sẽ được làm tại Đại Liên (Dalian) và Thiên Tân (Tianjin) thay vì tại Silicon Valley; và thép của thế kỷ XXI sẽ được sản xuất ngày càng nhiều hơn ở Đường Sơn (Tangshan) và Vũ Hán (Wuhan) thay vì ở Birmingham, Alabama, và Granite City, Illinois.
Đây chắc chắn không phải là cách thị trường tự do và sự hợp tác thương mại quốc tế hoạt động. Và tất cả chúng ta đáng lẽ phải nổi nóng với chuyện đang xảy ra này. Nhưng trong các phòng họp chính trị ở Berlin, Tokyo, và Washington, thái độ của các chính khách có vẻ ngày càng giống như Rhett Butler trong phim Cuốn theo chiều gió: “Anh nói thiệt cưng nghe, anh chẳng thèm để ý”.

Dân con Rồng tràn ngập Đại lục Đen
Không cần biết Tàu nói gì, thực tế rõ ràng là không phải chỉ có Kỹ sư và khoa học gia Tàu đến Phi châu. Nông dân cũng đến luôn. Đúng là thực dân kiểu mới. Hoàn toàn không có đạo đức, không có giá trị gì cả – Mustafa al-Gindi, Thành viên Nghị viện Ai Cập
Trong khi Tàu phát triển và các nước sản xuất khác có nguy cơ xuống dốc, các thuộc địa mới của Tàu như Angola và Zimbabwe vẫn trong tình trạng đói nghèo, và thường bị nội chiến. Mặc dù các thuộc địa này có nhiều tài nguyên thiên nhiên, sự đói nghèo và xung đột ở Phi châu là kết quả trực tiếp do sự tráo trở của Tàu. Lúc đầu Tàu hứa hẹn cho vay tiền để xây dựng hạ tầng cơ sở, tạo công ăn việc làm cho nhiều người dân địa phương. Nhưng khi khởi công thì Tàu lại xuất cảng đội quân cả triệu công nhân qua để làm. Thay vì thuê Kiến trúc sư, Kỹ sư, công nhân, xe tải, tại địa phương, Tàu đưa dân Tàu qua tối đa, chỉ thuê dân địa phương ở mức tối thiểu.
Tác giả của quyển sách Safari của Tàu (China Safari) mô tả tình trạng ở Sudan như sau:
Người Tàu khoan dầu và bơm dầu vào ống dẫn của Tàu đưa lên tàu của Tàu để chở về Tàu dưới sự bảo vệ của nhân viên Tàu. Công nhân Tàu làm đường làm cầu và xây đập nước khổng lồ khiến nhiều chục ngàn dân địa phương và nhiều ngàn điền chủ phải di tản. Nông dân Tàu tự sản xuất thực phẩm cung cấp cho đội quân lao động Tàu, hoặc nhập cảng các thực phẩm khác từ Tàu. Tàu cũng trang bị vũ khí cho các lãnh tụ tồi tệ địa phương để phạm tội ác với con người, và bảo vệ cái chế độ đó trong Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.

Và đây là âm mưu của Tàu mà ít ai để ý. Ngoài mục đích thâu tóm tài nguyên và chiếm lĩnh thị trường mới, Bắc Kinh còn có kế hoạch xuất cảng nhiều triệu dân Tàu qua các xứ thuộc địa ở Phi Châu và Nam Mỹ để giảm sức ép do dân số quá đông ở Tàu. Trong quyển China Safari, một khoa học gia Tàu đã giải thích kế hoạch đổ bộ dân Tàu như sau: Chúng tôi có 600 con sông ở Tàu mà hết 400 sông kể như chết vì ô nhiễm trầm trọng… Chúng tôi phải dời ít nhất 300 triệu dân qua Phi Châu thì may ra mới giải quyết được tình trạng.
Và đây là một thí dụ nhỏ về việc Tàu chơi ép để xuất cảng dân qua Đại lục Đen: Khi Nambia không thể trả nợ, mấy tay cho vay cắt cổ ở Bắc Kinh ép Nambia phải nhận nhiều ngàn gia đình Tàu qua định cư. Bí mật này được tiết lộ bởi WikiLeaks; và không cần nói cũng biết là khi tin này xì ra, dân Nambia vô cùng phẫn nộ.
Có thể bạn cũng nổi điên nếu Tàu cũng ép Mỹ phải nhận di dân như vậy.
Thử nghĩ xem, nếu vài tỉ đô la có thể khiến Tàu đưa được vài ngàn gia đình qua định cư ở Nambia, thì nước Mỹ phải nhận bao nhiêu trăm ngàn dân Tàu để trừ số nợ hai ngàn tỉ? Các tiểu bang như Montana và Wyoming còn rộng lắm mà phải không?

Sau đây là sự mô tả của nhà báo có tiếng Andrew Malone về kế hoạch biến Phi châu thành của Tàu: Một cách âm thầm, bảy trăm năm chục ngàn dân Tàu đã định cư ở Phi châu trong một thập niên qua. Và vẫn còn tiếp tục. Kế hoạch này đã được các giới chức Tàu tính toán cẩn thận. Một chuyên gia ước tính là Tàu cần phải đưa ba trăm triệu dân qua Phi châu để giải quyết nạn nhân mãn và ô nhiễm.
Kế hoạch có vẻ như đang tiến hành tốt đẹp. Cờ Tàu đang bay khắp nơi ở Phi châu. Những hợp đồng béo bở đang được ký kết để mua các thương phẩm như dầu, platinum, vàng, và khoáng chất. Các Tòa Đại sứ mới đang được xây và các đường bay đang được thành lập. Thành phần thượng lưu Tàu ở Phi châu hiện diện khắp nơi, đi mua sắm ở những cửa hàng đắt tiền, lái xe Mercedes và BMW, cho con học  trường tư riêng biệt…
Ở khắp nơi trên đại lục đẹp đẽ này, dân Tàu đang tràn vào như cơn nước lũ… Các khu đô thị biệt lập có hàng rào bao bọc đang mọc lên khắp nơi.
Người da đen không được bén mảng. Ngay cả những quần áo đặc thù Phi châu bày ở tiệm cũng được nhập cảng từ Tàu, mang nhãn “Made in China”.
Từ lời nhận xét gay gắt trên của Malone, bạn có thể thấy được phần nào rằng Tàu không chỉ xuất cảng công nhân xây dựng qua Phi Châu, Á Châu, và Nam Mỹ, mà Tàu còn đưa qua nông dân, thương nhân, và cả gái điếm!
Để dễ cảm nhận được sự xâm chiếm đất đai của Tàu, ta hãy giả sử rằng Chính phủ Mỹ tịch thu vài triệu mẫu đất canh tác tốt ở Iowa và Nebraska đem cho Tàu, đuổi nông dân ở đó đi chỗ khác chơi, rồi phân chia vùng cho Tàu ở riêng, ăn uống riêng. Bạn thử nghĩ xem dân Mỹ sẽ phẫn nộ lên tới mức nào? Đó chính là điều đang xảy ra ở Phi châu, nơi đã có hơn một triệu nông dân Tàu. Đúng vậy, hơn một triệu nông dân Tàu đang cày đất Phi châu sản xuất thực phẩm để xuất cảng ngược về Tàu nuôi dân Tàu – ngay trong khi dân địa phương đang đói nghèo.
Đây là một sự thực cay đắng trong việc chiếm đất Phi châu của Tàu: Theo tuần báo The Economist, Tàu đã chiếm hơn 7 triệu mẫu dầu cọ (palm oil) tốt của Congo để làm xăng hữu cơ.
Ở Zambia các nông trại Tàu đã sản xuất một phần tư số trứng được tiêu thụ ở thủ đô Lusaka. Ở Zimbabwe, theo báo Weekly Standard thì chế độ của Mugabe đã cho không Tàu những trang trại trước kia của người da trắng. Trong khi đó Con ngựa thành Troy mang cái tên mai mỉa “Nông trại Hữu nghị” đang được sử dụng ở các xứ như Gabon, Ghana, Guinea, Mali, Mauritania, và Tanzania để chiếm những khu nhỏ hơn hầu tránh bị để ý.

Chiếm thị trường Phi châu và Châu Mỹ La tinh
Cùng với cơn lũ nông dân Tàu, nhiều đợt con buôn Tàu cũng tràn vào Phi châu và Châu Mỹ La tinh. Một số mang theo cơn lũ hàng Tàu vào các thành phố lớn như Kinshasa, Kampala, Lagos, Lima, và Santiago. Một số khác mạo hiểm hơn, đến lập nghiệp ở các nơi xa xôi đang có các công trình xây cất của Tàu khắp Phi châu và Nam Mỹ.
Về chuyện gái điếm Tàu thì, giống như các công ty Tàu hạ giá thật thấp để tiêu diệt đối phương, các cô sống về đêm ở các quán rượu và nhà chứa cũng dùng cách rẻ tiền để loại đối thủ cạnh tranh. Các tác giả của quyển China Safari mô tả về tình trạng ở xứ nhiều gỗ Cameroon như sau:
“Gái điếm Tàu chỉ đòi có 2,000 CFA (4.25 đô la) trong khi các cô địa phương thì phải trên 5,000 mới chịu lên giường”.
Và đây lại thêm một chi tiết buồn cười nữa về lý do kinh tế khiến dân Tàu bỏ xứ ra đi: Khi cảnh sát giải thoát được một nhóm các cô do các tay buôn người đưa vào Congo-Brazzaville để làm điếm, những cô này lại nhất định đòi ở lại. Lý do là các cô kiếm được khá tiền hơn và được đối xử tốt hơn khi ở quê nhà Tứ Xuyên (Sichuan). Thì ra làm điếm ở xứ Congo xa xôi còn khá hơn làm ruộng ở quê Rồng.

Tàu xuất cảng sàn gỗ giết người và rác độc hại
Các công ty Tàu trả lương công nhân rất thấp và bắt họ làm việc nhiều giờ; làm sao đòi hỏi họ làm tốt hơn ở nước ngoài? Với 6,700 công nhân mỏ bị tai nạn chết mỗi năm (17 người một ngày)… làm sao trông mong được các công ty Tàu làm khá hơn ở các nơi khác trên thế giới? Tàu đã tàn phá hệ sinh thái nước Tàu trong quá trình hiện đại hóa nhanh chóng; làm sao ta có thể tin là Tàu sẽ tôn trọng môi trường như các nước Tây phương? – Weran Jiang, Đại Học Alberta
Với công nhân xây dựng, lái buôn, gái điếm, nông dân, hoặc cơn lũ hàng rẻ tiền đang khiến các cơ sở thương mại địa phương phải dẹp tiệm, Tàu đang xuất cảng các vấn nạn kinh tế và môi trường của họ qua các thuộc địa mới, đồng thời đẩy người dân bản xứ sâu vào hàng ngũ những người nhận cứu trợ hoặc phải đi ăn xin. Nhưng đây không phải là những hàng xuất cảng duy nhất.
Tàu cũng đang xuất cảng sự coi thường công nhân và sự coi thường môi trường. Như Giáo sư Weran Jiang đã nói rõ, không có gì phải ngạc nhiên. Bởi vì các kế hoạch gia Tàu ở Bắc Kinh còn chẳng chịu bảo vệ công nhân và môi trường của chính họ, thì làm sao trông mong là họ tử tế với mấy nơi khác như mỏ cobalt ở Congo, rừng ở Gabon, mỏ bạc ở Peru, hay mỏ đồng ở Zambia?
Sự trâng tráo của Tàu khi tàn phá đất thuộc địa có vẻ như không có giới hạn. Ta hãy xem chuyện gì đã xảy ra khi công ty quốc doanh thuộc hàng lớn nhất của Tàu là Sinopec vào Gabon để tìm dầu. Năm 2002 Chính phủ Gabon đã phân định một phần tư diện tích quốc gia toàn rừng nguyên sinh là vùng thiên nhiên cần được bảo vệ. Nhưng khi Sinopec vào Gabon tìm dầu, Sinopec bắt đầu ngay giữa khu rừng, đào bới ủi đất làm đường chằng chịt ngang dọc, đặt mìn tàn phá bừa bãi – mà chỉ bị chính quyền khẻ tay nhẹ.
Cũng như “kim cương máu” để mua vũ khí Tàu tàn sát người dân vô tội ở Congo, tiền bán gỗ cho Tàu được dùng để tài trợ và mua vũ khí cho cuộc nội chiến đẫm máu.

Người hùng trên yên ngựa đâu rồi?
Ở Nambia khi những công nhân bị đối xử tệ lên tiếng than phiền thì bị bảo rằng “hãy cố chịu đựng để đời con cháu được khá hơn”. Ở Kenya, khi bị hạn hán trầm trọng, dân chúng chặn công nhân làm đường để đòi được lấy nước uống từ một cái giếng duy nhất trong khu vực Tàu đang thi công – Africa News
Không khí sợ hãi và ghê tởm bao trùm các xưởng và mỏ của các ông chủ Tàu ở Phi châu và Nam Mỹ, vì giống như ở Tàu, làm việc nhiều giờ, lương thấp, thiếu an toàn, và những ông sếp tàn ác – cùng với việc đổ bừa bãi đủ thứ chất thải độc hại vào môi trường chung quanh.

Chút chi tiết đẫm máu: Khi các công nhân ở mỏ than Collum Coal Mine miền Nam Zambia lên tiếng than phiền về lương thấp và điều kiện làm việc thiếu an toàn, ông sếp Tàu hung bạo dùng súng shotgun bắn gục 11 người. Người hùng trên yên ngựa của Clint Eastwood đâu rồi?
Vụ bắn này không phải là riêng lẻ. Chỉ vài tháng trước đó ở một mỏ khác ở Zambia, cuộc đình công trở thành cuộc bạo động khi một sếp Tàu bắn vào đám đông. Dĩ nhiên Bộ Ngoại giao ở Bắc Kinh gọi cuộc thảm sát chỉ là “sự sai lầm”. Bạn nghĩ sao?

Sự vô đạo đức của Tàu làm hại Tây phương
Trong 640 triệu vũ khí nhẹ đang lưu hành trên thế giới, khoảng 100 triệu ở Phi châu –Baffour Dokyi Amoa, Pambuzaka News
Dù bị thiệt hại đủ thứ, câu hỏi là tại sao nhiều nước Phi châu, Á châu, và Châu Mỹ La tinh lại mở rộng vòng tay với Tàu? Có nhiều câu trả lời, và câu trả lời tùy vào cái xứ đó thuộc loại nào.
Loại địa ngục Phi châu nơi lãnh tụ là những kẻ vũ trang, sát nhân, hoặc những lãnh tụ “dân chủ” trá hình với thùng phiếu bị tráo và dân bị bầu dưới họng súng. Những chế độ đểu cáng như Angola, Sudan, và Zimbabwe luôn luôn ở đầu bảng.
Ở những xứ này và nhiều xứ Phi châu và Nam Mỹ khác, nơi nền dân chủ yếu và lãnh tụ quân sự mạnh, thực dân Tàu áp dụng khẩu hiệu lạnh xương sống do chính Thủ tướng Tàu Ôn Gia Bảo thốt ra ở Nghị viện Gabon: “Chỉ buôn bán thôi, không có điều kiện chính trị gì cả”.
Với chủ trương này, Tàu làm ăn với bất cứ một chính quyền ngoại quốc nào mà không cần biết chính quyền ấy tàn ác bạo ngược hoặc thối nát đến đâu. Tàu hoàn toàn không hề chỉ trích hay không hề đặt ra một điều kiện nào về nhân quyền hoặc sổ sách minh bạch.
Vậy ta có thể thấy ngay rằng chủ trương vô đạo đức của Tàu trong lãnh vực ngoại giao cho Tàu một lợi thế rất lớn so với các nước văn minh như Mỹ, Anh, Pháp, và Nhật. Những nước văn minh hành động riêng lẻ hoặc qua một cơ chế quốc tế như Liên Hiệp Quốc, dùng các vũ khí ngoại giao như cấm vận kinh tế, phong tỏa tài khoản, và cắt viện trợ, để buộc các bạo chúa phải bớt hung hăng. Nhưng trong khi các nước văn minh tạo sức ép lên các bạo chúa thì Tàu lén luồn vào bằng cửa sau.
Khi Mỹ ngưng giao thương với Sudan vì quân đội Ả Rập của nước này đang giết người da đen ở Darfur; khi Liên Hiệp Quốc cấm vận vũ khí đối với Ivory Coast hay Sierra Leone; khi Âu châu cố gắng tạo sức ép lên Eritrea hay Somalia; ngay cả khi gần như toàn thế giới đang đòi lãnh tụ độc tài Robert Mugabe của Zimbabwe phải tôn trọng kết quả cuộc bầu cử, thì Bắc Kinh lợi dụng cơ hội nhảy vào, cung cấp cho các bạo chúa này đủ thứ, từ vũ khí cá nhân và chiến đấu cơ phản lực đến máy vi tính và các phương tiện truyền thông.
Đây là một thí dụ cụ thể về việc “đổi máu lấy dầu” ở Dafur, trong đó vũ khí dùng để tàn sát dân là do Tàu cung cấp. BBC mô tả trong tài liệu “Cánh đồng thảm sát mới” như sau:
Nhiều ngàn phụ nữ và trẻ em bị hiếp dâm một cách có tổ chức ở Dafur trong khi các người chồng, người anh, và con trai của họ bị giết thê thảm… Chính quyền thả bom trước rồi lính tràn vào làng mạc Phi châu trên lưng lạc đà, ngựa, và xe tải… Nhiều làng bị tấn công tới năm lần.
Một phụ nữ tên Kalima… khóc than gọi chồng khi chồng cô bị đám lính giết, còn đứa con nhỏ 3 tuổi trên tay cô thì bị đám lính giật ra rồi thiêu sống tại chỗ. Bản thân cô bị đè ra hiếp dâm tập thể.
Như vậy, trong khi chúng ta ở các nước tự do dân chủ tôn trọng đạo đức thì Tàu lợi dụng cơ hội để thu hoạch kinh tế, bằng cách cung cấp AK47 cho nhiều ngàn lính trẻ con Phi châu ở Liberia, Nigeria và Sierra Leone – trong khi máy ủi đất của Tàu vùi nhiều ngàn tử thi dưới những cánh đồng thảm sát ở Dafur.

Còn nước Úc? Thế giới sụp đổ
Công ty China Guangdong Nuclear Power Holding Co… muốn mua quyền kiểm soát công ty Energy Metals Ltd. của Úc với giá 83.6 triệu đô la Úc.
Đây là một phần làn sóng đầu tư của Tàu vào tài nguyên thiên nhiên của Úc. Việc Công ty quốc doanh CGNPH muốn mua 70% chương trình khai thác uranium của Bigrlyi ở khu vực phía Bắc nước Úc là dấu hiệu đầu tiên cho thấy Tàu muốn lấn vào nước sản xuất uranium lớn nhất thế giới.
Tàu tỏ ý muốn mua công ty Úc giữa lúc liên hệ Úc-Tàu xuống mức thấp.
Tháng vừa rồi Tàu giam giữ bốn nhân viên Anh-Úc của Công ty Rio Tinto Ltd., trong đó có công dân Úc Stern Hu, với tội hối lộ và vi phạm bí mật quốc gia. Nhiều chính trị gia và bình luận gia không an tâm với việc Tàu muốn đầu tư lớn vào khu vực khai thác mỏ của Úc – The Wall Strett Journal.
Điều ngạc nhiên về kế hoạch thực dân của Tàu là làm sao ngay cả các nền kinh tế phát triển và có cơ cấu dân chủ vững mạnh như Úc, Brazil, và Nam Phi, cũng bị đồng tiền Tàu lôi kéo.
Ta hãy xem nước Úc. Dân Úc có trình độ giáo dục cao, tay nghề vững, và gần như có đủ loại tài nguyên thiên nhiên cần thiết để trở thành một trung tâm kỹ nghệ mạnh. Nhưng thay vì phát triển các ngành kỹ nghệ sử dụng tài nguyên sẵn có để sản xuất hàng tiêu dùng, các lãnh đạo thiển cận lại cho Tàu vào mua tài nguyên, đào những kho tàng khổng lồ để đem về các xưởng của Tàu.
Chỉ trong vài năm qua, các công ty Tàu như Yangzhou Coal Mining, China Minmetals, Hunan Valin Steel & Iron, China Metalurgical, và Shanghai Baosteel, đã được những hợp đồng khai thác tài nguyên vĩ đại. Dù trong ngắn hạn vài trăm gia đình thượng lưu Úc bỗng giàu to, nhưng về đường dài nước Úc sẽ lâm cảnh nghèo khó khi các mỏ bị vét sạch.
Ngay cả trong ngắn hạn nước Úc cũng đang bị thiệt thòi. Bởi vì sau khi Tàu dùng nguyên liệu của Úc sản xuất thành hàng hóa rồi đem ngược trở qua Úc bán, Úc bị thâm thủng mậu dịch với Tàu – mặc dù Úc có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú.
Cả hai nước Brazil và Nam Phi cũng tương tự – nhưng yếu hơn. Cả hai đều ngồi trên những kho tàng  phong phú. Cả hai đều có giới trung lưu và đều có nhiều cơ hội gia nhập hàng ngũ những nước kỹ nghệ. Nhưng cả hai lại cho Tàu lấy quá nhiều tài nguyên thiên nhiên và vì vậy bị thâm thủng mậu dịch với Tàu.
Chẳng hạn như ở Brazil và chỉ trong ngành dầu lửa, Công ty quốc doanh Sinopec của Tàu đã đổ vào 7 tỉ đô la để mua phần lớn số dầu dự trữ khổng lồ ở Santos Basin. Và đó không phải là điều duy nhất: Sinopec còn cho Công ty Petrobras của Chính phủ Brazil vay 10 tỉ đô la để đổi lại, Sinopec được quyền mua 10,000 thùng dầu thô mỗi ngày trong 10 năm với giá  thấp, dưới mức đáy. John Pomfret của báo The Washington Post đã vẽ bức tranh toàn cảnh “Chinamax” như sau:
Dọc theo dải cát vàng dài 175 dặm ở bờ biển Dại Tây Dương phía bắc Rio de Janeiro, Tàu đang xây dựng một thực thể kinh tế mới. Đi qua khỏi những hải cảng lớn nơi những tàu khổng lồ của Tàu đang lấy quặng sắt hoặc lấy dầu chở về Bắc Kinh, là một thành phố lớn gấp đôi Manhattan với các hãng xưởng đang mọc lên. Nhiều công trình này được xây dựng với tiền đầu tư của Tàu: xưởng luyện thép, công ty vận chuyển, xưởng xe hơi, xưởng sản xuất dụng cụ khai thác dầu và khí đốt… Sự đầu tư vào Brazil cho thấy kế hoạch “hướng ngoại” của Tàu để bảo đảm nguồn cung cấp tài nguyên thiên nhiên và để làm chậm sự phát triển của các công ty thuộc chính quyền địa phương.
Tổng thống Nam Phi Thabo Mbeki tỏ ý lo ngại về sự xâm lấn của thực dân Tàu: “Nếu Nam Phi chỉ xuất cảng nguyên liệu thô qua Tàu và nhập cảng hàng thành phẩm từ Tàu, Phi châu sẽ bị kẹt mãi mãi trong điều kiện kém phát triển”.
Dù là nước Úc văn minh, Congo loạn lạc, Nam Phi đang phát triển, hay là Zimbabwe độc tài, tất cả các nước này cùng giống nhau ở một điểm: Tàu đang bóc lột có kế hoạch các kho báu của họ.
Và sau khi các kho báu bị cưa, bị xúc, và bị hốt sạch, những thuộc địa này chỉ còn là những cái vỏ rỗng, không còn cơ hội để trở thành quốc gia kỹ nghệ với khả năng tạo nhiều việc làm mà đúng ra họ đã có thể được hưởng nếu họ không là thuộc địa của Tàu.
Đại bàng Mỹ biến thành chim bồ câu lớn nhất thế giới
Con Rồng sản xuất rất tham ăn. Con Rồng thuộc địa không ngưng nghỉ. Đại bàng Mỹ thì ngủ quên – Ron Vara.
Kết quả sau cùng là Tàu có kế hoạch chiếm đủ nguyên liệu cho các nhà máy Tàu chạy đều. Còn thế giới thì không. Trong khi đội quân triệu người của Tàu tràn đi khắp Phi châu, Á châu, và Châu Mỹ La tinh để thực hiện kế hoạch thâu tóm tài nguyên và chiếm lĩnh thị trường, Đại bàng Mỹ vẫn còn đậu dưới đất, Âu châu không dám đối diện sự thật, và Nhật Bản thì bất lực vì quá sợ hãi. Nhưng trước kia đâu đến nỗi như vậy – ít ra là với nước Mỹ.
Nước Mỹ đã từng là bậc thầy trong việc sử dụng “sức mạnh mềm” trên thế giới qua các công tác cứu trợ, ngoại giao, và viện trợ quân sự. Nhưng giờ thì Đại bàng Mỹ đã biến thành chim bồ câu; chúng ta đang gửi Peace Corps đến giúp những quốc gia mắc nợ ít hơn chúng ta, và chúng ta đang núp trong những trại lính ở những xứ mà chúng ta không nên đến. Đã đến lúc chúng ta và thế giới phải tỉnh dậy – và đứng lên chống lại – cái đế quốc thực dân đang hiện diện ngay giữa chúng ta. Một lần nữa, như Peter Finch đã nói một cách hùng hồn rằng, thế giới văn minh phải mở tung cánh cửa phía Đông mà gào to lên rằng, “Giận lắm rồi, không thể nào chịu nổi nữa”.
Bởi vì nếu chúng ta không vùng lên, “việc cấm vận” tài nguyên thiên nhiên mà Tàu đang áp dụng trên thế giới qua kế hoạch thực dân sẽ là dây thòng lọng siết cổ tất cả các nền kinh tế thế giới.
  Với thời gian, khi đế quốc Tàu ngày càng thâu tóm được nhiều hơn các nguồn tài nguyên thiên nhiên quý hiếm để thỏa mãn cơn thèm khát của Tàu, dây thòng lọng sẽ càng siết chặt vào cổ của Mỹ, Âu châu, Nhật, Nam Hàn, và các nước khác.

P.N & G.A.
Nguồn: diendantheky.net
Do GS Nguyễn Đức Tường gửi cho BVN.

Chủ Nhật, 27 tháng 7, 2014

Cây xanh có độc trồng từ nhà ra phố

Hàng trăm cây sò đò cam trên đường phố Nha Trang
Hàng trăm cây sò đò cam trên đường phố Nha Trang

Cùng với xu hướng đô thị hóa và mốt trồng cây phong thủy tại gia, hàng chục loại cây xanh, cây cảnh có chứa độc tố gây hại cho sức khỏe con người vẫn được trồng tràn lan từ trong nhà ra ngoài phố.
Vô tình rước “độc” về nhà!
Về nhà mới, để trang trí cho phòng khách gia đình có không gian xanh mát, chị Nguyễn Thị Thu (trú phường Phước Long, TP Nha Trang) hăm hở tìm đến các điểm bán cây cảnh. Thấy chậu cây vạn thiên thanh lá to, đẹp mắt chị ưng ý mua ngay. Được mấy hôm, có người bạn đến chơi thấy chị đặt chậu Vạn Thiên Thanh trong nhà liền la lên, kêu chị bỏ đi vì cây này có độc chất calcium oxalate, trẻ con tiếp xúc với nhựa hoặc nhai lá của chúng có thể gây dị ứng da, bỏng miệng, cứng miệng, thậm chí còn gây nghẹn họng và khó thở, trường hợp vào mắt có thể gây mù mắt… Kiểm chứng thêm thông tin trên mạng, chị Thu mới tá hỏa: “May mà biết sớm, không thì mình đã vô tình mang ẩn họa về cho 2 con vốn đang ở tuổi tò mò, hiếu động rồi!”.
 - 1
Hàng chục cây Trúc đào được trồng trên đường Trần Phú, TP Nha Trang.
Không riêng gì chị Thu, xu hướng trồng cây xanh tại gia đình đang rất phổ biến hiện nay. Thế nhưng đa phần người trồng cây cảnh chọn theo sở thích và yếu tố mỹ quan của cây, vị trí để trồng mà ít quan tâm đến vấn đề có nguy hại đối với sức khỏe hay không. Trong khi theo khuyến cáo của các nhà khoa học, có nhiều loại cây, hoa trồng trong nhà, vườn tiềm ẩn độc tố, gây nguy hiểm cho sức khỏe và tính mạng con người như cây hồng môn, đỗ quyên, chuỗi ngọc, rồng bát tiên, cẩm tú cầu…
 - 2
 Hồng môn - một loại cây cảnh mà tất cả các bộ phận đều có chứa độc tố khi ăn phải dẫn đến bỏng rát vùng miệng, dạ dày, ruột.
Rảo quanh các nhà vườn, cửa hàng bán hoa cây cảnh tại TP. Nha trang, chúng tôi bắt gặp nhiều khách đến mua hoa, cây cảnh. Khi được hỏi về loại cây, hoa có chứa độc đang được bày bán, đa số khách đến mua đều không hề biết. Hai vợ chồng anh Đức (trú phường Vĩnh Hải, TP. Nha Trang) chọn chậu cây cảnh chuỗi ngọc về trang trí cho quán cà phê. Theo anh Đức, “cây tròn trĩnh, nhìn lạ, đẹp mà người bán nói dễ chăm sóc nên tôi mua với giá 80.000 đồng, tôi không biết loại cây này có thể gây độc”.
Chị Phan Thị Mỹ Hạnh, một người bán cây cảnh ở Nha Trang, cho biết: “Khách đến đây mua cây thường hỏi những cây lạ, đẹp và phù hợp nơi họ trồng chứ ít người hỏi về cây có độc. Tôi nghĩ cây xanh mà, đâu có vấn đề gì. Còn những cây như trúc đào hay vạn niên thanh mủ nó có độc nhưng nếu để yên không động chạm đến thì có việc gì đâu!”. Và thực tế cho thấy, phần lớn người bán cây cảnh cũng không hiểu biết về những loại cây, hoa có độc để tư vấn cho người mua.
 - 3
 Khi cắt tỉa cây xanh, công nhân phải bảo hộ đầy đủ tránh mủ, lá cây tiếp xúc với tay có thể gây mù mắt, nôi ói.
Cây có độc… trồng đầy đường
Sự hiện diện của những cây cảnh có độc gây nguy hiểm cho con người cũng dễ dàng bắt gặp trên nhiều tuyến đường, công viên ở TP. Nha Trang, Cam Ranh, Ninh Hòa…
Trên đường Phạm Văn Đồng, đoạn từ trường Cao đẳng văn hóa, nghệ thuật và du lịch Nha Trang, dài hơn 1km về phía Bắc, không ít người dân và du khách đã trầm trồ khi chiêm ngưỡng sắc hồng tươi rực rỡ của cây trúc đào trong những ngày nắng đẹp của Nha Trang. Không xa nữa, cũng sắc hoa ấy ở đường Trần Phú (đoạn qua sân bay Nha Trang cũ); hay trên đại lộ Nguyễn Tất Thành, đoạn cung đường cửa ngõ từ sân bay Cam Ranh về Nha Trang, những cây hoa trúc đào sum suê giữa làn đường bung tỏa bóng hồng, khiến ai đi qua cũng phải ngước nhìn. Thế nhưng đây được xem là loại cây độc, được khuyến cáo không nên trồng ở vỉa hè, dải phân cách, nơi công cộng.
 - 4
Sự khác lạ của cây chuỗi ngọc khiến nhiều người thích thú, nhưng tất cả các bộ phận của cây đều có chứa độc tố.
Tại công viên Võ Văn Ký, TP. Nha Trang, có khá nhiều cây thông thiên trồng ngay những điểm tập trung nhiều người ngồi nghỉ ngơi hóng mát. Chúng tôi bắt gặp một số em học sinh Trường THCS Võ Văn Ký đang đùa giỡn quanh gốc cây, một số em khác thì nhặt những bông hoa thông thiên để chơi.
Nhận xét về những loại cây nêu trên, Tiến sĩ Nguyễn Thướng - Chủ tịch Hội Đông y tỉnh - khẳng định: “Cây thông thiên có chất licozit, gây độc hệ tiêu hóa dẫn đến tình trạng tiêu chảy, buồn nôn, mệt mỏi, khó thở thậm chí ăn phải hạt của chúng có thể gây chết người. Còn cây trúc đào cũng là loại cây rất độc, nếu uống nước có lá trúc đào, dùng thân trúc đào làm que xiên thịt hoặc gỗ trúc đào đun nấu khói của chúng cũng gây độc, dẫn đến chết người. Hoa trúc đào, thông thiên đẹp nên trồng ở nơi công cộng các bạn trẻ có thể bẻ hoa tiếp xúc với mủ của chúng rất nguy hiểm. Ngoài hai loại cây này, các loại cây như: Dao còn gọi là cây xương cá, trong mủ cũng có độc không nên trồng. Những người làm công tác chuyên môn chúng tôi rất lo ngại, mong rằng những loại cây có độc như thế này sớm bị loại bỏ”.
 - 5
Vạn  thiên thanh được trồng nhiều trong nhà, cơ quan, trường học… nhưng lá cây, mủ cây rất độc nếu trẻ ăn phải nhẹ thì bỏng rát niêm mạc, khó thở, ăn nhiều dẫn đến tử vong.
Trong khi đó, theo lãnh đạo đội cây xanh, Công ty TNHH một thành viên môi trường đô thị Nha Trang, hiện nay có khoảng 10 loại cây có chứa độc tố, mùi ảnh hưởng đến sức khỏe của con người đang được trồng trên các tuyến đường, công viên ở TP. Nha Trang như: trúc đào, thông thiên, thơm ổi, xương rồng bát tiên, hoa sữa, sò đo cam… Trong đó, có khoảng 100 cây trúc đào, trên 30 cây thông thiên (tập trung nhiều tại công viên Võ Văn Ký), gần 1.000 cây hoa sữa.
Một loại cây nguy hại có hoa rất đẹp khiến nhiều người dân và du khách thích thú cũng đang được trồng trên đường Trần Hưng Đạo, Hoàng Hoa Thám (TP Nha Trang), đường Điện Biên Phủ (Tp Cam Ranh) … là cây sò đò cam. Năm 2003, tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN), đã đưa sò đò cam vào danh sách 100 loài sinh vật ngoại lai xâm hại gây hậu quả nghiêm trọng trên thế giới. Và tại Khánh Hòa đã có hàng trăm cây sò đò cam đã được trồng mới, thay thế trên các tuyến đường, trong đó có nhiều tuyến đường tỉnh lộ môi trường phát tán dễ dàng.
Khó khăn về kinh phí
Việc trồng cây cảnh giúp làm đẹp cho cảnh quan đường phố, công viên, tăng thêm sức sống cho môi trường đô thị. Tuy nhiên, những loại cây có độc tố nêu trên vẫn đang tồn tại ở Nha Trang là không ít. Ông Ngô Khắc Thinh - Phó Trưởng phòng Quản lý đô thị TP. Nha Trang - cho rằng, trước đây trồng cây xanh, vấn đề ảnh hưởng sức khỏe con người chưa được đề cập đến vì chưa có quy định. Từ năm 2010 đến nay, việc trồng quản lý cây xanh theo quy chuẩn của Bộ Xây dựng và Nghị định 64 của Chính Phủ thì không trồng những loại cây ảnh hưởng sức khỏe con người. Và những loại cây độc hại còn là sự tồn tại từ lúc thực hiện các dự án xây dựng, cải tạo nâng cấp các tuyến đường (trước năm 2010).
 - 6
Hàng trăm cây sò đò cam trên đường phố Nha Trang được tổ chức Bảo tồn thiên nhiên Quốc tế cảnh báo là sinh vật ngoại lai xâm hại nghiên trọng.
Năm 2011, UBND TP. Nha Trang đã ban hành kế hoạch về phát triển đô thị Nha Trang giai đoạn 2011 đến 2015, trong đó năm 2014- 2015, mỗi năm bố trí 2 tỷ đồng triển khai nội dung hệ thống cây xanh ven đường, một phần kinh phí này phục vụ cho việc thay thế loại bỏ cây cấm trồng, cây hạn chế trồng. Tuy nhiên, để tiến hành thay thế, loại bỏ những loại cây này là không phải dễ vì kinh phí không đáp ứng. Bên cạnh đó, năm 2013, Phòng quản lý đô thị đã kêu gọi xã hội hóa để thay thế cây hoa sữa bằng việc đấu thầu nhưng không có tổ chức, cá nhân nào tham gia! “Để khắc phục tình trạng này, TP. có giải pháp tình thế, tức là những cây có độc nằm trước nhà dân, cơ quan, tổ chức nào có nhu cầu thay thế thì TP. cho phép thay thế. Nhưng đến nay các tổ chức, cơ quan mới thay thế được 50 cây, chủ yếu là cây hoa sữa” - ông Thinh nói.
Hiện TP. Nha Trang đã giao một số doanh nghiệp thống kê lại những tuyến đường số lượng các loại cây nằm trong danh mục cấm và đề xuất hướng xử lý vào tháng 6/2014 tới. Sau thời điểm này, TP. sẽ có thông báo đến UBND các xã, phường để cảnh báo cho bà con về các loại cây nằm trong danh mục cấm trên các tuyến đường để tránh các trường hợp đáng tiếc có thể xảy ra.
Ông Lê Hồng Sơn - Đội trưởng Đội cây xanh, Công ty TNHH MTV môi trường đô thị Nha Trang - nói: Trên địa bàn thành phố còn một số loại cây có họ độc hại. Đối với công nhân chúng tôi đã phổ biến trước khi cắt tỉa, chăm sóc phải bảo hộ đầy đủ kính, mũ, bao tay, khẩu trang.  Nhưng còn người dân không biết đi qua bẻ hoa, hái cành là rất nguy hiểm. Vừa qua công ty cũng đã đề xuất với các ban, ngành của TP sớm thay thế những loại cây này nhằm đảm bảo an toàn cho người dân.
Thanh Văn - Anh Thư